Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người
lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem
khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài
về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính
hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm
hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài
thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền
cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng
nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống
hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên
trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng
kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi ng¬ười lính Tây Tiến đối mặt với
dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc
sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ
dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ
“Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi
nhưng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí,
có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc
tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét
rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là
họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự
bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh
màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên
một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng
triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình
tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ
oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi
bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh
tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt
trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt
quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của
đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả
thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu
lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân
thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn ng¬ười lính
vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm
hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng
chinh phu hướng về phía trận mạc như¬ng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy
lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn
ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì
mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của
những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ
viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ
rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi
của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những
con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính
tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết
nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách
thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề
đúng là cái chết của bậc trượng phu:
“áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu
như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí
tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một
cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính
trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học
cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn
gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời
loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói
được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh
về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ
thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ
quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước
những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật
chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông
Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng
kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh
của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng
sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của
người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một
chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca
thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu kết:
Bốn
câu thơ kết thúc đ¬ược viết như¬ những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những
dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
“Mùa
xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây
Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân)
của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”,
“chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí
nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân
tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi
vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn
đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng
văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
dù bạn là ai, dù bạn có cố tình hay vô ý, dù sao bạn cũng đã ghé qua blog này, mong sao bạn cảm thấy thích thú. Nếu có chỗ nào bạn chưa vừa ý, mong bạn có thể nhiệt tình đóng góp ý kiến để trang blog ngày càng hoàn thiện hơn.
Thứ Tư, 5 tháng 10, 2011
vẻ đẹp người lính Tây Tiến qua khổ 3 bài thơ "Tây Tiến" ( Quang Dũng )
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Bài đăng Phổ biến
-
Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến c...
-
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI I. Hiểu được nội dung cơ bản lời khuyên của Bác. Bằng hình ảnh tượng trưng, với lối nói cường điệu, qua 4 câu thơ...
-
***** gợi ý: - Giới thiệu được vấn đề nghị luận: suy nghĩ về “kẻ mạnh” trong mối quan hệ giữa người và người. - Giải thích: Kẻ mạnh khôn...
-
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là nhữn...
-
Trong phần kết truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu viết: " Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ản...
-
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Giải thích : - Thế nào là “ Học để biết” - Thế nào là “ Học để làm” - Thế nào là “ Học để chung sống” - “...
-
Đặt vấn đề: - Trung thực là một đức tính cần phải có, quan trọng đối với tất cả mọi người - Đối với học sinh thì đó là một đức tính càng q...
-
Thanh Thảo sinh năm 1946, quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học Tổng Hợp Hà Nội, ông vào công tác ở ...
-
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI I/Hiểu được nội dung cơ bản của câu nói của Bê-Cơn Trên trái đất này,con người là động vật có sức mạnh siêu vi...
-
Mở đầu tác phẩm Vợ nhặt là bức tranh ngày đói. Chỉ vài nét vẽ phác thảo, nhà văn đã vẽ nên bức tranh ngày đói thật hãi hùng. Xóm ngụ cư chìm...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét