Xuất xứ
Sau chiến thắng Điện Biên, hiệp định Geneve được ký kết, miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng. Hồ Chủ tịch và Chính phủ kháng chiến trở về
thủ đô Hà Nội tháng 10/1954. Nhân dịp này Tố Hữu viết bài thơ “Việt
Bắc”.
Một vài điều cần biết
1. Việt Bắc là vùng địa lý - chiến khu bao gồm 6 tỉnh, được gọi tắt
là: Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà. Trong 9 năm kháng chiến, Việt Bắc là
chiến khu, là thủ đô của Chính phủ kháng chiến và Hồ Chủ tịch.
2. Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát gồm 150 dòng thơ (câu
thơ). Cấu trúc theo hình thức đối đáp của lối hát giao duyên trong dân
ca giữa “mình” với “ta”. (Sách Văn 12 chỉ trích học 88 dòng thơ)
Những ý lớn của bài thơ
- Những kỷ niệm ân tình sâu nặng một thời gian khổ
- Nhớ con người Việt Bắc
- Nhớ cảnh Việt Bắc trong 4 mùa
- Nhớ chiến khu Việt Bắc oai hùng
- Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Những tình cảm đẹp, những vần thơ hay
1. Hai mươi câu đầu là lời nhắn gửi, những câu hỏi của “ta” (người ở
lại nhắn gửi hỏi “mình” (người về). Cảnh tiễn đưa, cảnh phân ly ngập
ngừng, lưu luyến bâng khuâng: “Tiếng ai tha thiết bên cồn… áo chàm đưa
buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ ta… có nhớ
không… có nhớ những ngày… có nhớ những nhà… có nhớ núi non… mình có nhớ
mình…” Sự láy đi láy lại diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người ở
lại. Bao kỷ niệm sâu nặng một thời gian khổ như vương vấn hồn người:
(…) Mình đi có nhớ, những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…
Các câu 8 hầu như ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ cân
xứng, hài hòa, âm điệu thơ êm ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm
sâu vào tâm hồn người, gợi ra một trường thương nhớ, lưu luyến mênh
mông.
“Mình” và “ta” trong ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự.
“Mình”, “ta” đi vào thơ Tố Hữu đã tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu
sắc dân ca, nhưng đã mang một ý nghĩa mới trong quan hệ: người cán bộ
kháng chiến với đồng bào Việt Bắc; tình quân dân, tình kẻ ở người về.
2. Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể
nói đó là khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao
trùm nỗi nhớ ấy là “như nhớ người yêu” trong mọi thời gian và tràn ngập
cả không gian:
- Nhớ cảnh Việt Bắc, cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:
“Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre,
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần cù gian khổ:
“… Nhớ bà mẹ nắng cháy lưng
… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang
…Nhớ cô em gái hái măng một mình
… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Điều đáng nhớ nhất là nhớ người ở lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn liền với tình yêu thiên nhiên,
tình yêu sông núi, đầy lạc quan và tự hào. Nhớ cảnh nhớ người, “ta nhớ
những hoa cùng người”. Nhớ mùa đông “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Nhớ
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách đổ vàng”.
Nhớ cảnh “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nỗi nhớ triền miên, kéo dài theo
năm tháng.
- Nhớ chiến khu oai hùng:
“Núi giăng thành luỹ sắt dày,
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”
- Nhớ con đường chiến dịch:
“Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay…”
Âm điệu thơ hùng tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng
của quân và dân ta. Từ núi rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả
đều mang theo một sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam thần kỳ quyết thắng.
- Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin
“… (Nhớ) ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
… Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
… Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”
- Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử và cách mạng:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”
Một số bài tập:
Baì 20556
Tình quê hương đất nước trong ba bài thơ “ Bên kia sông Đuống “ ( Hoàng
Cầm ) , “ Việt Bắc “ ( Tố Hữu ) và “ Đất nước “ ( Nguyễn Đình Thi )
Baì 20548
Nhớ chân người bước lên đèo
(Trích Việt Bắc - Tố Hữu)
“Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người…”
Các bài tập liên quan
Bộ tranh tứ bình trong bài thơ “Việt bắc”
Cuộc chia tay đầy lưu luyến nhờ thương giữa những người cán bộ kháng
chiến và nhân dân Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu phản ánh trong bài thơ
“Việt Bắc” như cuộc chia tay của một đôi bạn tình. Ta và mình đã sống
với nhau mười lăm năm keo sơn gắn bó, giờ đây phải chia tay để làm nhiệm
vụ mới. Bài thơ được kết cấu theo lối hát đối đáp dân tộc. Đoạn trích
dưới đây là lời của người cán bộ kháng chiến nói lên nỗi yêu thương nhớ
của mình đối với Việt Bắc, với thiên nhiên tươi đẹp và với con người
Việt Bắc tình nghĩa”
”..Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Mở đầu đoạn thơ, người cán bộ kháng chiến hỏi Việt Bắc có nhớ “ta” không
và diễn tả nỗi nhớ của mình với Việt Bắc một cách khái quát:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Điệp từ “Ta về” và “nhớ” tăng cường nhạc điệu êm ái hợp với tình cảm
thương nhớ và nhấn mạnh tình cảm tha thiết giữa người đi kẻ ở. Trong nỗi
nhớ của người ra về, ấn tượng sâu đậm nhất là “hoa” và “người”. “Hoa”
là biểu tượng của thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp. Đặt “hoa” bên cạnh
“người” làm tôn lên niềm yêu mến trân trọng của người đối với nhân dân
các dân tộc Việt Bắc tình nghĩa.
Đoạn thơ còn lại diễn tả nỗi nhớ dào dạt của người về xuôi đối với Việt
Bắc. Nỗi nhớ hiện lên trong từng thời gian và không gian của Việt Bắc.
Người ra về nhớ cả hình ảnh bốn mùa của Việt Bắc. Cũng là cái cớ để nhà
thơ phác họa vẻ đẹp rực rỡ và thơ mộng của núi rừng và gợi hình ảnh của
nhân dân Việt Bắc ân tình thủy chung.
Đây là mùa đông với màu xanh tha thiết lại đột ngột bùng lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng, ấm áp tìn yêu:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắg dao gài thắt lưng”
Vẻ đẹp của màu sắc, của hoa lá, của ánh sáng, của hương hoa hòa quyện với vẻ đẹp của con người.
Giữa “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” đã nổi bật lên hình ảnh người lao động miền núi:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Tố Hữu quan sát rất tinh. Người đi rừng bao giờ cũng có một con dao trần
dắt lưng lấp lánh ánh sáng mặt trời. Hình ảnh “đèo cao ánh nắng”… ấy
làm sao mà quên được?
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bức tranh mùa xuân lại được chuyển sang gam màu lạnh. Ngày xuân rừng núi
phủ một màu trắng tinh khiết của hoa mơ. Động từ “nở” khiến cho màu sắc
như đang vận động, màu trắng càng có sức ám ảnh đối với người đọc. Dưới
ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái lao động Việt Bắc hiện
lên thanh mảnh, dịu dàng:
“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Mùa hè, âm thanh của tiếng ve là đặc trưng của rừng núi Việt Bắc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng”
Tác giả đã sử dụng bút pháp ấn tượng . Tưởng chừng như tiếng “ve kêu”
đậm đặc, rung chuyển cả cây rừng khiến cho lá “phách đổ vàng”, Ấn tượng
ấy mang lại nét lạ cho phong cách thơ Tố Hữu. Giữa cảnh rừng mua hè, bất
chợt gặp một cô gái “hái măng một mình”, phong cảnh thật là hữu tình.
Cảnh thu Việt Bắc lại được miêu tả về đêm với bầu trời cao rộng và mảnh trăng thu thanh bình.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Những đêm trăng thu nổi lên “tiếng hát ân tình thủy chung” như tạc vào
trong dạ của người ra đi. Trong trí nhớ của họ, phong cảnh Việt Bắc đầy
màu sắc như một cái nền để làm nổi bật hình ảnh người Việt Bắc đảm
đang,tình nghĩa, thủy chung.
Như vậy là màu sắc, đường nét, âm thanh của rừng núi Việt Bắc được miêu
tả trong sự vận động của thời gian, không gian. Mùa nào, cảnh rừng Việt
Bắc cũng đẹp, cũng nên thơ đáng yêu, đáng nhớ. Có thể coi đấy là bộ
tranh tứ bình đặc sắc của cảnh rừng Việt Bắc kháng chiến in đậm trong
tâm trí của người về.
Đây là đoạn thơ đặc sắc trong bài thờ “Việt Bắc” nổi tiếng của Tố Hữu.
Đoạn thơ đã diễn tả được tình cảm nhớ thương Việt Bắc sâu nặng của người
cán bộ kháng chiến khi rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Ngôn ngữ
uyển chuyển, ngọt ngào. Những từ “ta”, “mình” được nhà thơ sử dụng có ý
nghĩa mới. Những từ vón rất riêng được Tố Hữu dùng với nghĩa chung,
khiến cho cái chung có sứ rung động lạ thường. Nhạc điệu của câu thơ lục
bát êm đềm có sức ngân vang trong lòng người đọc như một khúc hát ru kỉ
niệm. Điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần với nhiều cấp độ khác nhau
tăng cường nhạc điệu du dương của đoạn thơ và nhấn mạnh được nỗi lòng
lưu luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh, với người Việt Bắc. Đặc
biệt hơn cả là trong tâm tưởng của người ra vè in sâu hình ảnh sắc màu
của bức tranh tứ bình tươi sáng rực rỡ thơ mộng. Đoạn thơ đã diễn tả
được một khía cạnh sâu sắc của chủ đề bài thơ “Việt Bắc” là tình cảm
thủy chung – thủy chung với cách mạng.
“Ta” với “Mình” trong bài thơ “ Việt Bắc”
"Việt Bắc” là một bài thơ trữ tình cách mạng. Mối tình giữa
Việt Bắc và người cán bộ cách mạng được Tố Hữu diễn tả như một mối tình
riêng. Tố Hữu hình tượng hóa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng như một
đôi bạn tình. Đôi bạn tình đã chung sống với nhau mười lăm năm “ thiết
tha, mặn nồng”, giờ đây họ chia tay nhau vì người cán bộ phải đi làm
nhiệm vụ mới. Buổi chia li đầy lưu luyến lại phảng phất không khí buổi
chia tay của những đôi bạn tình trong ca dao hàng trăm năm nay. Tố Hữu
mượn thể hát đối đáp dân tộc, đồng thời cũng mượn luôn cả ngôn ngữ đậm
đà màu sắc dân tộc để thể hiện những tình cảm mới. “Ta” với “Mình” tưởng
như chỉ có thể có một đời sống riêng trong ca dao, với Tố Hữu, bỗng lớn
dậy, tự nhiên thỏai mái đi thằng vào đời sống chung của dân tộc, ôm
trùm lấy những tình cảm lớn của thời đại.
Trong buổi chia tay, Việt Bắc đặt ra cho bạn mình những câu hỏi dồn dập,
nặng tình, nặng nghĩa, nặng suy nghĩ, bộc lộ yêu thương đồng thời cũng
đòi hỏi được yêu thương. Ray rứt nhất là câu này:
“ Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Đây là một trong những câu thơ hay nhất của bài Việt Bắc. Cũng khong sợ
nói quá là câu thơ đã cõng cả chủ đề bài thơ, dĩ nhiên là còn có câu chị
câu em hộ vệ. Linh hồn của câu thơ đọng ở ba chữ mình. Hai chữ mình
trước ngôi thứ hai đã đành, chữ mình sau cũng là ngôi thứ hai. Lạ nhất
là đại từ mình ngôi thứ hai này. Trong ca dao, không gặp kiểu đại từ đổi
ngôi như vậy.
“Mình đi mình có nhớ mình”
Câu thơ vốn có gốc rễ sâu xa trong ca dao của dân tộc bỗng vụt lớn lên,
mới mẻ hiện đại. Nói nôm na ra là anh đi anh có nhớ anh không? Anh nhớ
em và anh còn phải nhớ anh nữa. anh có thể quên em, nhưng ngay cả anh,
anh cũng có thể quên đấy. Câu hỏi thật sâu nặng, nghe mà giật mình. Ca
dao chỉ đòi nhớ em thôi. Vậy là Tố Hữu thêm hương thêm sắc cho chữ tình,
và chủ đề sâu sắc của bài thơ lộ ra một cách kín đáo, chứ không đợi đến
những câu ướm hỏi dè chừng sau này…
Mình ở đây trong sáng biết mấy, đẹp đẽ biết mấy, anh hùng biết mấy. Mình
đã từng gắn bó với những kỷ niêm êm đềm, đã từng đồng cam cộng khổ
“miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, đã từng chia bùi sẻ ngọt
“Thương nhau chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” chẳng
khác gì ”tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”
(Bình Ngô đại cáo). Cho nên mình để lại những trang sử oai hùng, mình
gắn liền với những di tích lịch sử vô giá “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình
cây đa”. Bây giờ “Mình về thành thị xa xôi”, rồi “nhà cao”… rồi “phố
đông” rồi sáng đèn”… liệu mình có thay lòng đổi dạ với mình không? Mười
lăm năm trước đây, Tố Hữu như thấy trước những diễn biến tư tưởng trong
hòa bình cho nên đã mượn lời Việt Bắc ướm hỏi một cách xa xôi gợi rất
nhiều suy nghĩ. Tước đi cái vỏ ngòai là cách phô diễn đối đáp., Việt
Bắc còn lại nguyên hình là bài thơ lòng dặn lòng. Lời thơ tiếng thơ
“Việt Bắc” cứ xao xuyến lên là ở cái hương thầm này mà ra. Dặn răng
“uống nước nhớ nguồn”. mình hãy nhớ lấy. chất đạo đứ cao đẹp trong những
ngày kháng chiến vô cùng gian khổ này. Đó vừa là đạo lí làm người của
dân tộc ta vừa là phẩm cách mới của người cách mạng. Về mặt tâm lý cũng
sâu sắc. Thực ra người hỏi “ co snhớ mình” không, cũng là một dịp nữa để
hỏi “có nhớ ta” không, bởi vì “ mình với ta tuy hai mà một”. Những
trang sử oanh liệt kia, những di tích lịch sử vô giá kia đâu phải chỉ là
mình? Cách thể hiện tình cảm ở đây thật kín đáo, tế nhị.
Trước những câu hỏi chân tình, tha thiết của Việt Bắc, người về xuôi đáp lại những câu cũng chí tình:
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
(Trả lời câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta, Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”)
Lại gặp ba chữ mình. Mình ngôi thứ nhất nhớ mình ngôi thứ hai. Sử dụng
ngôi thứ hai của đại từ như vậy không có gì đặc biệt, nhưng dùng liền ba
chũ mình khiến câu thơ rất quyện và ấm. Nếu thay mình ngôi thứ nhất
bằng ta thì tình cảm sẽ lạnh và xa xôi hẳn, điều tối kị trong những buổi
chia li, nhất là đối với người ra đi. Ngươc lại, chữ ta trong câu thơ
sau đây thì rất thích hợp:
“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”
(Trả lời cho câu hỏi:”Mình đi mình có nhớ mình, Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”)
Trong lời hỏi của Việt Bắc, Tố Hữu dùng ba đại từ ngôi thứ hai, trong
lời đáp của người về xuôi, Tố Hữu lại dùng ba đại từ ngôi thứ nhất. Sự
chuyển đổi ngôi thứ của đại từ thật là linh họat. Cũng có thể nói nôm
na: anh về anh vẫn nhớ anh đấy!
Tố Hữu sử dụng rất khéo léo những đại từ “ta”, “mình” trong câu làm giàu
thêm ý nghĩa của câu thơ. Đây là ta với mình trong cảnh chia li:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.”
Mình và ta đứng ở hai đầu câu thơ nhìn nhau đau đáu. Câu thơ gợi cảm xa
xôi, hợp với tâm trạng của người ở lại. Trong tâm trạng chia tay, người ở
lại cứ muốn nói xa ra, để được đòi thương, đòi yêu, đòi nhớ, để được
thêm cớ nghi kị, ghen tuông. Cách cấu trúc câu thơ này chúng ta cũng bắt
gặp trong bài thơ “Thề non nước” của Tản Đà:
”Nước non nặg một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non”
Lúc thề nguyền. “nước”, “non” đứng sóng đôi nhau. Khi xa cách “nước”, “non” tách ra dứng ở hai đầu mút câu thơ. Xa vời biết mấy!
Trong lời của người về,”ta” với “mình” lại gài chặt với nhau.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà dinh ninh”
Hoặc:
“Nửa mai mình gởi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình”
Ta với mình xoắn quýt , quấn quýt nhau làm nồng nàn cả câu thơ, làm yêu lòng người ở lại
Bài thơ ”Việt Bắc” nồng đượm hương vị ca dao dân tộc. Một trong những
yếu tố tạo ra màu sắc dân tộc đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ dân tộc được Tố
Hữu vận dùng rất nhuần nhị. Những từ vốn có một đời sống riêng trong ca
dao được nhập vào với gia đình ngôn ngữ hiện đại. “Ta”, “mình” đã mang
lại cho bài thơ trữ tình cách mạng một màu sắc tình cảm đặc biệt thấm
thía, làm riêng cả mối tình chung. Và Ta, mình đi qua tâm hồn Tố Hữu lại
cũng được sáng ra, lấp lánh những ý nghĩa mới. Ta với mình ấy là dân
tộc. Ta với mình ấy là hiện đại.
Phân tích tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu
Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử
cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” - kiệt tác của Tố Hữu cúng được
sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước. Năm 1954, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về
Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa
nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã
sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một
nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm
năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu
luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những
kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa.
Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân
ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta –
Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách
mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung,
lưu luyến.
Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc - người ở lại - mở lời trước
là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng
đối với người ra đi
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình
có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng
không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều
nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách
mạng.
Đại tư Mình và Ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được
điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ
thường, ân tình ân nghĩa.
Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Việt Bắc lại hỏi:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng
chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến.
Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng
chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.
Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết
của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc
trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và
trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ
kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập
giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son)
biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc,
nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.
Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ
mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì
giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng
những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì
chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở
với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng
biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân
Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị,
nhớ đừng thay lòng đổi dại với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với
chính mình:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
“Mình đi, mình có nhớ mình”
Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu!
Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”
Hai đại từ Ta – Mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta”
thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:
“Mình đi, mình lại nhớ mình”
(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)
Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của
người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật
là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả
lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại - Việt Bắc.
Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô
cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ
khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng
chiến của quân dân Việt Bắc.
Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời
thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con
người:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao
nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã
được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”
Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu
tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.
Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của Ta và Mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:
“Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân
hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở
cho bộ đội. “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố,
tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm
hành quân, những đoàn dân công, những đòan xe vận tải tấp nập sôi động:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn
tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ - Cụ Hồ. Và hình
ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là
căn cứ địa kháng chiến, lừ niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.
Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:
“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)
(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)
Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành
thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy
phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.
Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một
của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng
của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.
“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca
cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của
nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư
tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai
điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng
khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân(đặc
biệt là hia đại từ Ta - Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong
phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài
thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng sưốt được biểu
hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng
người.
dù bạn là ai, dù bạn có cố tình hay vô ý, dù sao bạn cũng đã ghé qua blog này, mong sao bạn cảm thấy thích thú. Nếu có chỗ nào bạn chưa vừa ý, mong bạn có thể nhiệt tình đóng góp ý kiến để trang blog ngày càng hoàn thiện hơn.
Thứ Hai, 24 tháng 10, 2011
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Bài đăng Phổ biến
-
Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến c...
-
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI I. Hiểu được nội dung cơ bản lời khuyên của Bác. Bằng hình ảnh tượng trưng, với lối nói cường điệu, qua 4 câu thơ...
-
***** gợi ý: - Giới thiệu được vấn đề nghị luận: suy nghĩ về “kẻ mạnh” trong mối quan hệ giữa người và người. - Giải thích: Kẻ mạnh khôn...
-
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là nhữn...
-
Trong phần kết truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu viết: " Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ản...
-
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Giải thích : - Thế nào là “ Học để biết” - Thế nào là “ Học để làm” - Thế nào là “ Học để chung sống” - “...
-
Đặt vấn đề: - Trung thực là một đức tính cần phải có, quan trọng đối với tất cả mọi người - Đối với học sinh thì đó là một đức tính càng q...
-
Thanh Thảo sinh năm 1946, quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học Tổng Hợp Hà Nội, ông vào công tác ở ...
-
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI I/Hiểu được nội dung cơ bản của câu nói của Bê-Cơn Trên trái đất này,con người là động vật có sức mạnh siêu vi...
-
Mở đầu tác phẩm Vợ nhặt là bức tranh ngày đói. Chỉ vài nét vẽ phác thảo, nhà văn đã vẽ nên bức tranh ngày đói thật hãi hùng. Xóm ngụ cư chìm...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét