Trang

Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012

Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu




Câu 1: Dựa vào văn bản (cả phần lược bỏ và phần trích), hãy tóm tắt cốt truyện Chiếc thuyền ngoài xa.

Phóng viên nhiếp ảnh Phùng được trưởng phòng đề nghị đi chụp một cảnh biển buổi sáng có sương mù để bổ sung vào bộ ảnh lịch nghệ thuật về thuyền và biển. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển miền Trung, từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Phùng đã “phục kích” mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định thu vào chiếc máy ảnh cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh với “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Nhưng chính từ chiếc thuyền ngoài xa với vẻ đẹp tuyệt đỉnh, toàn bích ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài, và lão đàn ông hùng hổ dùng “chiếc thắt lưng của lính ngụy” thẳng tay quật tới tấp vào người vợ, trong khi người vợ nhẫn nhục chịu đựng, “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Phùng chưa kịp xông ra can ngăn thì thằng bé Phác, con lão, đã kịp chạy tới giằng chiếc thắt lưng quật vào người bố để che chở người mẹ. Biết Phùng chứng kiến tình cảnh của gia đình nó, thằng bé Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái rượt đuổi thằng em trai để tước con dao găm thằng bé giấu trong cạp quần, định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Không thể nén chịu hơn được nữa, Phùng xông ra đánh nhau với lão đàn ông và bị thương nhẹ. Anh nán lại ở vùng biển mấy ngày theo lời mời của Đẩu. Người đàn bà, lần thứ hai, được Đẩu mời đến tòa án huyện. Ở đây, Phùng và Đẩu đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao sự cảm thông, ngỡ ngàng, ngạc nhiên và vỡ lẽ ra nhiều điều. Những tấm ảnh Phùng mang về, trưởng phòng “rất bằng lòng” và chọn lấy một tấm đưa vào bộ lịch năm ấy và sau này “vẫn còn được treo ở nhiều nơi”. Tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, Phùng “vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, và bao giờ anh “cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”, “hòa lẫn trong đám đông...”.

Câu 2: Chiếc thuyền ngoài xa được tổ chức xung quanh một tình huống truyện như thế nào? Anh/chị có nhận xét gì về cách tạo tình huống truyện của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này? Cách tạo tình huống truyện như vậy có tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa của tác phẩm?

Về tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa, có người cho là tình huống nhận thức, người khác coi là tình huống nghịch lí, lại có người cho rằng nó gồm cả hai nhưng không đồng đẳng. Quả thực, qua câu chuyện gia đình hàng chài ta thấy nổi lên một tình thế nghịch lí: chồng đánh vợ, con đánh bố; người vợ tốt mà luôn bị chồng đánh đập tàn bạo; bị chồng hành hạ đau đớn mà vẫn nín thinh, thậm chí xin được đưa lên bờ mà đánh; nhìn con đánh bố để che chở cho mình thì lại van xin khóc lóc... Một cuộc sống như thế còn gì nghịch lí hơn? Nhưng sự kiện bao trùm lên cả thiên truyện, đó không phải là cuộc sống đầy nghịch lí của gia đình hàng chài mà là chuyến đi thực tế tới làng chài của nghệ sĩ Phùng để chụp một bức ảnh theo đề nghị của trưởng phòng. Trong chuyến đi này, Phùng đã phát hiện ra những nghịch lí, làm phá vỡ hoàn toàn sự nhận thức lâu nay của mình về thực trạng cuộc sống và về sự trái ngược giữa thực trạng cuộc sống với ý đồ nghệ thuật của trưởng phòng. Trong vai người kể chuyện, Phùng không chỉ muốn kể về nghịch cảnh của một gia đình hàng chài, mà muốn trình bày những “vỡ lẽ” trong hành trình nhận thức quanh co mà cả người nghệ sĩ lẫn vị thẩm phán trải qua. Bởi vậy, tình huống bao trùm thiên truyện là một tình huống nhận thức, còn cái tình huống nghịch lí của gia đình hàng chài chỉ là một tình huống nhỏ được lồng trong đó.

Tạo được một tình huống truyện vừa đan lồng (tình huống nhỏ lồng vào tình huống lớn) vừa đồng tâm (cả người nghệ sĩ nhiếp ảnh lẫn vị thẩm phán đều trải qua một hành trình nhận thức quanh co để “vỡ ra” chân lí), mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, đó là nét độc đáo trong cách tổ chức tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Cách tạo tình huống truyện như vậy vừa có tác dụng hấp dẫn, lôi cuốn người đọc vừa làm nổi bật được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Câu 3: Anh/chị hãy phân tích quá trình nhận thức của hai nhân vật Phùng và Đẩu. Qua hai nhân vật này nhà văn muốn nói lên điều gì?

Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong cảnh “thật là thơ mộng”, để chụp bổ sung vào bộ ảnh lịch một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Và anh đã phát hiện thấy “một cảnh “đắt” trời cho”, cảnh “chiếc thuyền ngoài xa” với đường nét, màu sắc “đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện”, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong ngần, ngập tràn hạnh phúc trước “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, khiến anh chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Nhưng ngay sau đấy, anh bất ngờ chứng kiến đến hai lần cái cảnh bạo hành tồi tệ, dã man, nhức nhối của chính cái gia đình sống trên chiếc thuyền “thơ mộng” đó. Trước nghịch cảnh ấy, điều gì đang “vỡ ra” trong nhận thức của nghệ sĩ Phùng? Phải chăng đó là cái vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng thường che lấp cái sự thực bên trong? Bởi vậy, người nghệ sĩ sẽ không bao giờ hiểu thấu được sự thực ở đời nếu chỉ nhìn cuộc sống từ ngoài, từ xa. Và, nghệ thuật chỉ “chụp ảnh” cái bề ngoài là một thứ nghệ thuật giả dối, phi đạo đức. Không chỉ có vậy. Chứng kiến câu chuyện người đàn bà hàng chài kể lể ở tòa án, Phùng còn vỡ lẽ thêm nhiều điều khác. Thì ra, ở người đàn bà hàng chài, đằng sau sự nhẫn nhục chịu đựng xúc phạm, hành hạ, là đức hi sinh lớn lao của tình mẫu tử; đằng sau vẻ ù lì thất học, lại là một người "thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời"… Và, khuất sau hành vi côn đồ, vô đạo của thằng con đánh bố, là tình thương sâu nặng dành cho người mẹ. Chưa hết, điều vỡ lẽ bất ngờ, sâu sắc hơn ở Phùng là những nhận thức về cái lão hàng chài "độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian". Ban đầu, với nhận thức giản đơn Phùng đinh ninh cái xấu cái ác ở lão có nguồn gốc từ phía địch, hoặc từ rượu chè hay từ bản tính của lão. Hóa ra không phải. Lão không đi lính ngụy mà trốn lính. Rượu chè cũng không. Bản tính lão vốn “cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập vợ". Và bây giờ, mỗi khi đánh vợ, lão cũng "rên rỉ đau đớn". Không phải từ bản tính, từ rượu chè, từ phía địch. Vậy thì từ đâu? Hóa ra, cái ác cái xấu ở lão là do lão bị cầm tù trong cuộc sống quẩn quanh, đói khổ, trong tập quán lạc hậu, khiến bị thui chột ý thức về nhân phẩm, về giá trị người, giá trị sống, cho nên lão chà đạp lên nhân phẩm, giá trị người mà vẫn không hay biết. Hóa ra, lão đàn ông vừa là tội phạm, lại vừa là nạn nhân. Đối mặt với những sự thực ấy, điều gì đang “vỡ ra” trong đầu nghệ sĩ Phùng? Phải chăng người nghệ sĩ nếu chỉ nhìn nhận giản đơn, sơ lược thì không thể phát hiện được cái khuất lấp, cái bề sâu của cuộc đời và con người. Bởi vậy, người nghệ sĩ phải biết dấn thân vào cuộc đời, phải có cái nhìn bề sâu, đa diện, nhiều chiều mới có thể phát hiện ra sự thật và cái đẹp thường bị che lấp bởi cái vẻ đẹp bên ngoài, cái xấu bề nổi của cuộc sống và con người.

Đẩu là một vị chánh án huyện, vốn trước đây là một người lính, nên với lối nghĩ thời chiến, anh tin luật pháp công bằng và thiện chí của mình sẽ giúp thay đổi số phận người đàn bà hàng chài. Anh đã giáo dục, răn đe chồng bà ta nhiều lần nhưng không mấy kết quả. Thấy "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng", anh nghĩ bà ta “không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy” nên đành gợi ý bà ta bỏ chồng để khỏi bị hành hạ. Nhưng bà ta vẫn khăng khăng gắn bó, lạy lục van xin đừng bắt bỏ chồng. Đẩu đã phải thốt lên "không thể nào hiểu được!". Đến khi thấu hết lời người đàn bà hàng chài, trong đầu vị chánh án cấp huyện ấy có “một cái gì vừa mới vỡ ra”. Cái điều “vỡ ra” ấy, phải chăng là anh đã có thể hiểu được những nghịch lí của đời sống mà con người phải chấp nhận? Phải chăng trong cuộc sống, bao việc tưởng vô lí nhưng xem ra lại có lí riêng; nhiều chuyện ngỡ đơn giản, kì thực, hết sức phức tạp? Không thể đem thiện chí và ý chí đơn thuần giải quyết mà xong được.

Câu 4: Phân tích tính cách người đàn bà hàng chài (chú ý những lời giải bày của người đàn bà ở tòa án huyện); qua đó phát biểu cảm nghĩ của anh/chị về nhân vật này.

Trong tác phẩm, tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định, không có tên tuổi cụ thể, nhưng số phận nhân vật này lại được tác giả tập trung thể hiện với thái độ đáng cảm thông, chia sẻ nhất. Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà hàng chài gợi ấn tượng về một cuộc đời cực nhọc, lam lũ. “Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”. Với chồng, một lão đàn ông vũ phu thường xuyên đánh đập, hành hạ dã man “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, bà vẫn thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Nhưng sự cam chịu, nhẫn nhục của bà không phải mù quáng mà thương xót và thấu hiểu hơn ai hết, vì bà cũng như bao người đàn bà vùng biển khác “cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng một sắp con”. Với con, bà là một người mẹ thương yêu vô bờ, tận tâm, che chở cho con, biết chịu đựng, hi sinh để “sống cho con chứ không thể sống cho mình”, bà lo sợ con làm điều dại dột, cố tránh cho con khỏi bị tổn thương. Trước vị chánh án huyện, bà tự tin, sắc sảo, thông cảm và bộc bạch thành thực những suy nghĩ của mình. Qua những lời giải bày thật tình của bà ở tòa án huyện, ta càng thấy rõ mọi sự chịu đựng, hi sinh, gánh lấy khổ đau của bà chỉ vì để sống cho con, nuôi con khôn lớn. Một sự cam chịu, nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Bà là một tính cách người mẹ khó nhọc, lam lũ, cam chịu mà nhân hậu, giàu lòng vị tha, đức hi sinh. Người mẹ hàng chài ấy chẳng phải là bóng dáng của biết bao người phụ nữ, bà mẹ Việt Nam đó sao?

Câu 5: Anh/chị thử tìm những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài. Chi tiết lão đàn ông rút “chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa”, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, ngay ở bên “chiếc xe rà phá mìn của công binh Mĩ” có phải là một sự gợi ý về nguyên nhân của tình trạng này không? Anh/chị có nhận xét gì về tư tưởng nhân đạo của tác giả khi đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình?

Trong tác phẩm, cảnh lão đàn ông hành hạ, đánh đập vợ tàn bạo bằng “chiếc thắt lưng của lính ngụy” thường diễn ra bên những chiếc xe tăng và xe rà phá mìn sét gỉ trên bãi biển – là những thứ tàn tích sau chiến tranh – là một sắp đặt đầy dụng ý của tác giả. Tuy nhiên, tái hiện những hình ảnh này, Nguyễn Minh Châu không hề giản đơn để ám chỉ về cái xấu và cái ác kia như một thứ tàn tích của chiến tranh. Phải chăng trong những hình ảnh ấy còn hàm chứa một ẩn ý bề sâu? Đó là bạo lực chiến tranh do kẻ địch gây ra đã bị tiêu diệt còn chưa lùi xa, thì đã sinh ra thứ bạo lực khác, dai dẳng và đáng sợ hơn nhiều. Là vì thứ bạo lực này chà đạp lên phẩm giá người, hủy hoại nhân tính, làm tha hóa cuộc sống con người, nhưng nó lại khó nhận ra, khó tiêu diệt hơn. Nhưng thứ bạo lực đáng sợ này sinh ra từ đâu? Qua tính cách lão đàn ông hàng chài, người đọc có thể thấy nó nằm sẵn trong lão, nó sinh ra từ tình trạng đời sống đói khổ, tăm tối, từ sự lạc hậu, mông muội, khiến lão bị thui chột ý thức về nhân tính, về tư cách người, giá trị người, vì thế lão chà đạp lên nhân phẩm, giá trị người mà vẫn không nhận ra.

Đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài – chồng đánh vợ, con đánh bố, Nguyễn Minh Châu đã làm dấy lên nỗi xót thương và niềm lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị hành hạ, ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sẽ sớm nhiễm thói vũ phu thô bạo, tồi tệ do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào gia đạo, cuộc sống. Tác giả không chỉ lên án bạo lực, phê phán sự lạc hậu, mông muội, không chỉ bày tỏ tình thương yêu đối với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, khổ đau mà còn cảnh báo một nguy cơ đáng sợ: nếu không giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối, lạc hậu thì không thể tiêu diệt được cái xấu cái ác. Chính nhà văn đã chỉ ra điều này trong lời kể đầy ẩn ý: “… cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết – nếu không có cách mạng về”. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của thiên truyện.

Câu 6: Tên truyện là Chiếc thuyền ngoài xa. Gần cuối truyện, hình ảnh chiếc thuyền ấy lại hiện lên trước một cơn giông tố lớn đang ập đến. Anh/chị có nhận xét gì về dụng ý nghệ thuật và ý nghĩa thể hiện qua chi tiết này?

Tên truyện Chiếc thuyền ngoài xa rõ ràng hàm chứa một ẩn ý của nhà văn. Qua nội dung câu chuyện, hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa nơi nhan đề gắn với cái đẹp “tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, cái đẹp “toàn bích, toàn thiện”, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình hàng chài trên con thuyền ấy biết bao khó nhọc, lam lũ, khổ đau, bất hạnh, bạo hành tồi tệ. Thì ra hình ảnh chiếc thuyền nhìn từ xa rất khác với nhìn gần; nhìn từ xa thì thấy thơ mộng, tuyệt đỉnh; nhìn gần thì thấy sự thực tàn bạo, tồi tệ, nhức nhối. Đó là nghịch lí giữa cái đẹp bên ngoài và sự thực xấu xa, tồi tệ bên trong mà một cái nhìn giản đơn, sơ lược không thể phát hiện khám phá ra được. Nhan đề truyện là một khái quát giản dị về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống và là một ẩn dụ tượng trưng cho cái nhìn nghệ thuật về cuộc đời và con người.

Gần cuối truyện, vẫn là hình ảnh chiếc thuyền ấy, nhưng trước một cơn giông tố lớn đang ập đến. Hàm ý tượng trưng ẩn ở tầng sâu hơn. Đó không giản đơn là một cảnh báo với niềm lo âu về một nguy cơ cuộc sống trước cơn bão bạo lực mà là một dự cảm với chiều sâu nhân đạo về cơn bão cách mạng để tiêu diệt cái ác, để đổi thay cuộc sống, giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối để con người được sống xứng đáng là con người.

Câu 7: Phân tích đoạn văn cuối truyện (“Không những trong bộ lịch năm ấy …, hòa lẫn trong đám đông…”); qua đó phát biểu nhận xét về quan điểm nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.

Đoạn văn cuối truyện là một ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng. Là một nghệ sĩ say mê, nhạy cảm trước cái đẹp “toàn thiện, toàn bích”, anh đã thực sự xúc động, ngỡ ngàng, cảm thấy “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn” trong cái khoảnh khắc phát hiện “cái đẹp tuyệt đỉnh” của chiếc thuyền ngoài xa hòa vào “bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Và anh đã chủ tâm chụp lấy bức ảnh “không có người. Hoàn toàn là thế giới tĩnh vật” như trưởng phòng mong muốn. Nhưng anh không ngờ chính trên chiếc thuyền ấy là một gia đình hàng chài đang sống trong tình trạng bạo hành, dã man, tồi tệ. Trước sự đối lập, nghịch lí giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” với cuộc sống lầm than, cay cực của gia đình hàng chài, anh đã day dứt, trăn trở, trải qua một cuộc đối chất riết ráo giữa thứ nghệ thuật “hoàn toàn tĩnh vật” mà vị trưởng phòng mong muốn với nghệ thuật vì sự thực ở đời, vì những kiếp lầm than. Điều này đã luôn ám ảnh anh, đến nỗi sau này, mỗi lần nhìn ngắm bức ảnh chụp cảnh biển buổi sáng có sương, “tuy là ảnh đen trắng” nhưng anh “vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, và “bao giờ cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Cái ám ảnh, cái ấn tượng lạ lùng này của Phùng cho thấy trong sâu thẳm nhận thức, tư tưởng của anh, anh đã li khai với thứ nghệ thuật “màu hồng” xa lạ với sự thật về đời sống và con người; lòng người nghệ sĩ này đã thấu hiểu nghệ thuật chân chính luôn là sự thực ở đời, là vì cuộc đời, vì những kiếp lầm than; nó không thể nhân danh bất cứ điều gì để lảng tránh sự thật về con người, mà phải có trách nhiệm can dự vào cuộc đời, phải góp tiếng nói tích cực vào việc giải phóng con người khỏi sự cầm tù của nghèo đói, tăm tối và bạo lực để con người có một cuộc sống xứng đáng với con người. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn này mà nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa là một ẩn ý về tuyên ngôn đó. - Tuy nhiên, ý nghĩa của đoạn kết truyện không chỉ dừng lại ở đấy. Câu văn “và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, […] Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” chứa đựng chiều sâu ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm. Phải chăng tình trạng khốn khổ, cay cực của người đàn bà hàng chài kia không hề là cá biệt, mà trong đám đông kia, ai cũng là một người như thế. Câu văn canh cánh một niềm lo âu ấy không chỉ thể hiện tình thương yêu đối với những kiếp lầm than, cay cực mà còn là tiếng kêu giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối, lạc hậu, để có thể xóa bỏ được cái xấu cái ác, làm cho con người được sống xứng đáng với con người. Muốn vậy, không còn giải pháp nào khác ngoài con đường cách mạng. Ấy là một cuộc cách mạng diệt trừ cái xấu cái ác, xóa bỏ các thứ bạo lực để con người ngày càng hoàn thiện, đất nước ngày càng đẹp tươi. Cuộc cách mạng ấy đã và đang về, chứ không còn là dự cảm, là kì vọng đau đáu của một nhà văn suốt đời không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của người cầm bút – Nguyễn Minh Châu.

Câu 8: Anh/chị có nhận xét gì về ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật và giọng điệu trần thuật trong Chiếc thuyền ngoài xa?

Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa cũng rất đáng chú ý. Trong truyện, người kể chuyện là nhân vật Phùng - thực ra là sự hóa thân của tác giả. Cách chọn người kể chuyện như vậy tạo ra được một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng phát hiện khám phá đời sống được nhận thức, làm cho lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu, lời lẽ lão đàn ông vũ phu đầy vẻ tục tằn, thô bỉ, tàn nhẫn, hung bạo; lời lẽ của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; lời lẽ của Đẩu ở tòa án huyện rõ là giọng của một người tốt bụng, nhiệt thành,... Lối sử dụng ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật rất phù hợp, linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề tư tưởng của thiên truyện.

Nét đặc sắc trong ngôn ngữ kể chuyện của truyện Chiếc thuyền ngoài xa là giọng điệu trần thuật – phần hồn của lời kể. Nó bộc lộ thái độ cảm xúc của chủ thể, là một hiện thân của tư tưởng tác giả. Trong truyện ngắn này, nhân vật trưởng phòng là đối tượng bị phê phán. Nhưng thái độ phê phán ở đây không bộc lộ qua giọng điệu, lời lẽ gay gắt, trực diện – như thế thì bất lợi và thất cách – mà giấu thật kĩ, thật sâu đằng sau cái giọng khách quan, bình thản, có khi là giọng tán dương, hàm ơn, hay chỉ là giọng phàn nàn vô hại, qua những lời lẽ có vẻ đề cao vị trưởng phòng, nào là "sâu sắc", "lắm sáng kiến", nào là "quả quyết", "cặp mắt đầy tinh khôn,… Ngay cả khi nói đến cái chủ trương làm bộ lịch ảnh về thuyền và biển, "không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật" rất đáng phê phán của vị trưởng phòng thì tác giả cũng chỉ kể lại một cách khách quan bình thản. Vì thế mà thoáng đọc, người đọc khó nhận ra thái độ phê phán ẩn sâu trong những đánh giá có vẻ ưu ái ấy. Thế nhưng, khi người đọc phát hiện ra sự đối lập gay gắt giữa thứ nghệ thuật mà vị trưởng phòng muốn với cái thực trạng tồi tệ của hiện thực đời sống thì cái ý vị mỉa mai, chua xót, sâu cay trong giọng điệu trần thuật của người kể chuyện mới bật lên sau những lời lẽ có vẻ tán dương, đề cao kia. Cũng như vậy, người đọc có thể nhận ra thái độ mỉa mai, chua xót, cay đắng của tác giả đằng sau những lời mô tả đầy hoa mĩ, thơ mộng, lãng mạn, ngây ngất của Phùng trước cái đẹp được coi là “tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” ở phần đầu truyện, khi người đọc chứng kiến cái thực trạng dã man, tồi tệ, phi đạo đức được bày ra ở phần sau truyện, cùng với những đau xót sâu sắc và chân thực của Phùng… Nén thái độ vào giọng, giấu giọng vào mạch, dùng tình huống để đảo lộn giọng trong lời kể, đó là một tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Minh Châu qua thiên truyện.

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

TÓM TẮT TÁC PHẨM VĂN XUÔI LỚP 12


Tóm tắt truyện Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài ( in trong tập Truyện Tây Bắc, 1953) :

          Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mỵ là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mỵ đã có người yêu . Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử -con trai thống lý Pá Tra- để xoá nợ. Nhưng một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng  Mị bị đối xử  thậm tệ.
Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ, câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
*
Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng, định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt.
Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử tội và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ.
*
Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa . A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm- chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha.
Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người đờ đẫn, vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mỵ đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta.
*
Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương .


Tóm tắt VỢ NHẶT (1955) – Kim Lân  (in trong tập Con có xấu xí, 1962)

          Giữa lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi chiều tà, Tràng- một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi- dẫn một người phụ nữ về nhà.
Vì đang lâm cảnh ngộ đói rách cùng đường nên chỉ qua vài lần gặp gỡ với một vài câu nói đùa, rồi cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc do Tràng “chiêu đãi”, người phụ nữ này ưng thuận theo không anh về nhà
Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình.
Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới

Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Bà cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng  và một nồi chè cám.
Qua lời kể của người vợ, Tràng dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phất phới.


Tóm tắt  RỪNG XÀ NU ( 1965)- Nguyễn Trung Thành

          Truyện kể về một làng ở Tây Nguyên- làng Xô Man- nằm giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận những trận đại bác của đồn giặc.
Chuyện chính thức bắt đầu bằng việc Tnú trở về thăm làng sau ba năm tham gia lực lượng Giải phóng quân. Thằng bé Heng dẫn đường cho Tnú vì đường vào làng nay đã bố phòng nghiêm ngặt: hầm chông, hố chông, dàn thò chằng chịt….
Đêm đó, Tnú ăn cơm và ở lại nhà cụ Mết. Cả làng tụ họp, Dít kiểm tra giấy phép xong, cụ Mết tự hào kể lại cho mọi người nghe trang sử đấu tranh đồng khởi của làng, gắn bó sâu sắc với cuộc đời Tnú.
*
Hồi ấy, Mỹ- Diệm khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ (anh Quyết). Tuy còn nhỏ tuổi, Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho anh Quyết, rồi được anh Quyết dạy chữ. 
Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện,  Tnú bị địch phục bắt, bị tra tấn nhưng anh nhất quyết không khai báo. Ở tù ba năm, Tnú vượt ngục  trở về làng thay anh Quyết lãnh đạo buôn làng tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và kết hôn cùng Mai.

Tin làng  Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc. Thằng Dục đưa lính đến lùng sục vây ráp. Cụ Mết, Tnú, cùng thanh niên lánh vào rừng. Không bắt được Tnú, bọn giặc bắt Mai  với đứa con nhỏ chưa đầy tháng của hai người đánh đập dã man.
 Từ vị trí ẩn nấp,  Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc hành hạ, Tnú nhảy xổ vào cứu vợ con, rồi bị chúng bắt, Mai và đứa con chết. Bọn giặc tẩm nhựa Xà nu đốt mười đầu ngón tay anh để khủng bố tinh thần dân làng.
Tnú kiên cường chịu đựng quyết không kêu la. Có tiếng động chung quanh, Tnú thét lên một tiếng, dân làng đồng thanh, nhất tề nổi dậy, thằng Dục và tiểu đội ác ôn đã bị cụ Mết và thanh niên diệt gọn. Làng Xô Man đồng khởi thắng lợi. Tnú gia nhập Giải phóng quân. Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một đêm.

Sáng hôm sau, Cụ Mết, Dít tiến anh lên đường . Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh con nước lớn.


Tóm tắt truyện Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi (2/1966)
                         
          Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ vừa bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau tòng quân. Nhờ sự đồng tình của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận.
Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ và sáu tên Mĩ lẻ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và chết chóc. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình, về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị Chiến… .

Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân đau buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó “là sự sống”.
Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều háo hức tòng quân, nhưng Chị Chiến nhất định giành đi trước vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến đêm mít tin, Việt nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến chậm chân và “bật mí” chuyện Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được tòng quân. Đêm hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến, vì Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng.
Sáng hôm sau, hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng mình “thương chị lạ”.
Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến; sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt cảm thấy chiến công của mình chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và mong ước của má.


TÓM TẮT CỐT TRUYỆN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (1983, NGUYỄN MINH CHÂU)

Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đánh đập vợ một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình.
Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp . . . Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người đàn bà ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm ảnh.


HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT - 1981 (Lưu Quang Vũ)

Trương Ba, gần 60 tuổi- là một người làm vườn tốt bụng, đặc biệt rất cao cờ. Do tắc trách, Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Vợ Trương Ba lên Thiên đình kiện. Theo gợi ý của Đế Thích,  để sửa sai, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ở làng bên vừa mới chết, mới ngoài 30 tuổi, để được sống lại, ,.
Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái : lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng; gia đình Trương Ba ngày càng lủng củng.  Đặc biệt, sống bằng thân xác hàng thịt, Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn xa lạ  với ông. Gay nhất là chị hàng thịt đòi hỏi Trương Ba phải là người đàn ông thực sự của chị. Lí trưởng nhân đấy sách nhiễu vòi tiền; con trai Trương Ba ngày càng đắc ý, lấn lướt, coi thường bố. Ngược lại, vợ, con dâu, cháu nội Trương Ba không thể chịu nổi và dần dần xa lánh. Trương Ba vô  đau khổ.
Trước nghịch cảnh ấy, Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt, cũng không chấp nhận nhập vào xác cu Tị , kiên quyết chấp nhận cái chết.


Tóm tắt phần trích giảng  truyện ngắn Số phận con người (1957) của Sô-lô-khốp

          Chiến tranh kết thúc, Xô-cô- lôp giải ngũ nhưng không muốn trở lại quê nhà. Anh đến chỗ của một đồng đội cũ, xin làm lái xe cho một đội vận tải. Tình cờ anh gặp chú bé Va-ni-a mồ côi, không nơi nương tựa vì bố mẹ em đều đã chết trong chiến tranh. Ngay lập tức, anh quyết định nhận Va-ni-a làm con. Chú bé ngây thơ tin rằng Xô-cô-lốp là bố đẻ của mình. Xô-cô-lôp yêu thương, chăm sóc chú bé thật chu đáo và xem nó là niềm vui lớn, niềm an ủi của mình. Tuy nhiên, anh vẫn bị ảm ảnh bởi những mất mát quá lớn trong chiến tranh. Hằng đêm anh vẫn mơ thấy vợ và các con của mình, « thức giấc thì gối đẫm nước mắt ».
          Rồi một chuyện rủi ro xảy ra : xe anh đụng phải con bò và anh bị thu hồi bằng lái, phải chuyển sang làm thợ mộc để kiếm sống. Theo lời mời của một người bạn khác, ở Ka-sa-rư, anh dẫn bé Va-ni-a đến đó với hi vọng chừng nửa năm sau anh được cấp lại bằng lái mới. Dù thế, anh vẫn cố trấn tĩnh, vì không muốn để bé Va-ni-a biết được tâm trạng đau buồn của mình.


Tóm tắt cốt truyện truyện ngắn Thuốc (1919) của Lỗ Tấn

- Chương I: Vợ chồng Hoa Thuyên- chủ một quán trà nghèo- có đứa con trai độc nhất mắc bệnh lao rất nặng. Nhờ có người mách, vào một đêm thu lúc trời chưa sáng hẳn, lão Hoa Thuyên  tìm tới pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa chịu án chém về cho con ăn vì cho rằng ăn như thế nó sẽ khỏi bệnh.
- Chương II: Vợ chồng Hoa Thuyên cho bé Thuyên ăn thuốc. Thằng bé thật tiều tuỵ, đáng thương. Vợ chồng Hoa Thuyên đặt hết niềm tin tưởng vào sự hiệu nghiệm của phương thuốc này.
- Chương III: Trời vừa sáng,  lúc bé Thuyên ăn thuốc xong, quán trà nhà lão Hoa Thuyên dần đông khách. Câu chuyện của khách xoay quanh hai sự việc. Sự việc thứ nhất là tất thảy bọn họ đều tin tưởng vào công hiệu của phương thuốc bánh bao tẩm máu tươi mà thằng bé vừa ăn . Hai là họ bàn tán về người tù bị chém sáng nay. Qua lời của Cả Khang thì người bị chém tên là Hạ Du người trong địa phương. Hạ Du theo đuổi lí tưởng đánh đổ nhà Mãn Thanh, giành chủ quyền cho người Trung Quốc (Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta). Hạ Du bị bắt vì người bà con tố giác. Trong tù Hạ Du vẫn tuyên truyền tư tưởng cách mạng. Tuy nhiên, tất cả những người có mặt trong quán trà hôm đó không một ai hiểu đúng về Hạ Du. Bọn họ cho Hạ Du là điên, là thằng khốn nạn.
- Chương IV: Vào một buổi sáng Thanh minh năm sau, mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên cùng đến nghĩa địa (dành cho người nghèo, người tù và người bị chém) viếng mộ con. Hai người mẹ đau khổ bước đầu có sự đồng cảm . Họ rất ngạc nhiên khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa. Mẹ Hạ Du đã bắt đầu hiểu ra việc làm của con bà và tin tưởng những kẻ giết hại Hạ Du nhất định sẽ bị quả báo.


Tóm tắt truyện Ông già và biển cả (1952)của Hê-minh-uê

Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Xan-ti-a-gô -một "ông già" đánh cá người Cuba, 74 tuổi .
Suốt 84 ngày liền, ông lão không bắt được một mống cá nào, dân làng chài cho rằng lão đã “đi đứt” vì vận rủi. Cậu bé Ma-nô-lin cũng bị cha mẹ không cho đi câu chung với lão nữa.
Vào ngày thứ 85, lão quyết định ra khơi trước khi trời sáng. Lần này lão đi thật xa, đến tận vùng Giếng Lớn. Khoảng trưa, một con cá lớn cắn câu, kéo thuyền về hướng tây bắc.
Sáng ngày thứ hai, con cá nhảy lên . Đó là một con cá kiếm, lớn đến nỗi trước đây lão chưa từng nhìn thấy. Con cá lại lặn xuống, kéo thuyền chạy về hướng đông.
Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Dù đã kiệt sức, lão kiên trì thu ngắn dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm chết được con cá, buộc nó vào mạn thuyền dong về. Nhưng chẳng bao lâu nhiều đàn cá mập đánh hơi được đã lăn xả tới. Từ đó đến đêm, lão lại đem hết sức tàn chống chọi với lũ cá mập- phóng lao, vung chày, thậm chí dùng cả mái chèo để đánh- giết được nhiều con, đuổi được chúng đi, nhưng lão biết con cá kiếm của mình chỉ còn trơ lại một bộ xương.
Đến khuya, đưa được thuyền vào cảng, về đến lều, lão vật người xuống giường và chìm vào giấc ngủ , rồi mơ về những con sư tử
  

TÓM TẮT TRÍCH ĐOẠN ĐỌC HIỂU TRONG SÁCH GIÁO KHOA

Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Bằng tất cả kinh nghiệm và sự khéo léo lão thận trọng thu dây câu nhưng lão biết vòng tròn còn khá lớn, con cá hãy còn xa tầm tay của lão. Từng tí một lão cố gắng thu hẹp vòng lượn của con cá và phát hiện rằng con cá đã thấm mệt nên liên tục ngoi lên trong lúc bơi.
           Sau cú quật đột ngột và cú nảy mạnh ở sợi dây, lão sợ con cá nhảy lên có thể làm văng mất lưỡi câu. Nhưng con cá không nhảy lên mà bắt đầu lượn vòng chầm chậm. Lão cho đó là cơ hội lí tưởng để mình nghỉ ngơi dưỡng sức .
 Đến vòng lượn thứ ba, lần đầu tiên lão thấy con cá như một cái bóng đen lướt qua dưới con thuyền, rồi trông thấy rõ hơn khi nó mấp mé mặt nước. Đến vòng lượn tiếp theo, lão trông thấy lưng cá nhưng nó vẫn còn ở xa thuyền. Lão chuẩn bị lao, và thu dần dây câu. Đến mấy vòng lượn sau con cá tiến gần mạn thuyền . Dù đã kiệt sức, lão vẫn giẫm chân giữ dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm vào chỗ hiểm giết chết được con cá. Máu cá loang ra nhuộm sẫm cả vùng nước chung quanh. Con cá chết thẳng đơ, trắng bạc và bồng bềnh theo sóng.
            Không thể đưa con cá lên thuyền vì nó quá lớn, lão cẩn thận buộc nó dọc theo mạn thuyền, giương buồm về bến. Lão thật sự hài lòng và tự hào với thành quả lao động của mình.

Bài đăng Phổ biến