Trang

Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

VỘI VÀNG

VỘI VÀNG
- Xuân Diệu -


Xuân Diệu, người đươc mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình” dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu. Nhắc đến Xuân Diệu, ta không thể không nhắc tới bài thơ "Vội vàng” trong tuyển tập "Thơ thơ" của ông. Bài thơ tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo trong nghệ thuật thơ ông. Qua bài thơ ta sẽ cảm nhận đươc niềm khao khát sống mãnh liệt, quan niệm về thời gian, về tuổi trẻ và hạnh phúc của Xuân Diệu.

Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. ấy là ước muốn quay ngược qui luật tự nhiên - một ước muốn không thể:

“ Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất ;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi. ”

Muốn "tắt nắng", muốn "buộc gió" thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ,đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là Xuân Diệu đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.

Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:

”Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,”

Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra 1 thiên dường trên mặt đất. Trong đoạn thơ, điệp ngữ "này đây" được sử dụng 5 lần kết hợp với lối kiệt kê khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngột đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau đã thể hiện được tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu.

Không những thế, cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở Xuân Diệu thật đặc biệt. Nó cho ta thấy một thiên nhiên rạo rực xuân tình:

”Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân."

Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc “Thần Vui hằng gõ cửa”. Xuân Diệu đã vật chất hoá thời gian, câu thơ không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm vị ngọt khiến người ta đắm say, ngất ngây: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Dù đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, nhưng Xuân Diệu vẫn nhớ rõ quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: "tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ..." Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng-vội vàng. Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoa niên mà đã “vội vàng một nửa”. Cảm nhận của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ, nhưng vội càng "Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân." Với tất cả niềm vui sướng như khựng lại khi Xuân Diệu nhận ra giới hạn của thời gian.

Trong 17 câu tiếp ta thấy rõ hơn nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời ở Xuân Diệu: sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của con người.:

"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua. Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hòan,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"

Xuân Diệu biết mùa xuân rồi sẽ tàn phai, tuổi trẻ rồi cũng trôi qua. Cho nên trong cái tươi đẹp mơn mớn của nó tác giả đã nhìn thấy sự tàn úa. Điệp từ “Xuân” kết hợp với những cặp từ đối lập tạo thành một nỗi day dứt một niềm tiếc nối khôn nguôi. Với giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới-qua, non-già, hết-mất, rộng-chật để khẳng định một chân lý - triết lý: mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Điệp từ “Nghĩa là” vừa như muốn giải thích nhưng ẩn sau đó là một nỗi lo lắng, hốt hoảng trước sự trôi chảy của thời gian. Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: "Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?". Đang chìm đắm trong đau buồn, tuyệt vọng nhà thơ chợt nhận ra thời gian của tuổi xuân vẫn còn nên lên tiếng giục giã: “mau đi thôi! Mùa chưa ngã chiều hôm”. Thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn

So với những đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng "tôi" - cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống:

"Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"

Mở đầu bài thơ là cái “Tôi” của Xuân Diệu; nhưng kết thúc bài thơ lại là “ta” của mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệutrong dòng chảy thời gian: Sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: “Ta muốn ôm”, “Ta muốn riết… Ta muốn say… Ta muốn thâu…” Điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật “vắt dòng” với ba từ “và”: "và non nước, và cây, và cỏ rạng." xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là khao khát của thi nhân: cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân... Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ:" Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi." Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của 1 trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong câu thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ "cắn" khiến câu thơ thật gợi cảm xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, cuồng nhiệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng không có giới hạn.

Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỷ trong hưởng thụ. Bài thơ là tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu: cảm nhận thiên nhiên tinh tế, sử dụng điệp ngữ so sánh độc đáo, hình ảnh thơ khoẻ khoắn, nồng nàng, từ ngữ gợi cảm, táo bạo. “Vội vàng” thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến Bài thơ thể hiện tư tưởng nhân sinh quan tích cực của tác giả, lòng yêu cuộc sống, yêu đời, yêu tuổi trẻ một cách mạnh liệt, cuống nhiệt.

TRÀNG GIANG

TRÀNG GIANG
- Huy Cận -



Huy Cận, một trong những tác giả xuất sắc của phong trào thơ mới. Ông ngậm ngùi dứng nhìn đời như một triết nhân và ngòi bút thi sĩ cứ lần lượt khơi dậy bao lớp buồn đọng lại mấy ngàn năm dưới đáy hồn nhân thế. “Tràng giang” là một cung bậc buồn trong bản đàn buồn “Lửa thiêng” của Huy Cận.

Tràng giang là một không gian mênh mông vô biên. Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ dẫn vào vô biên rồi. Xuân Diệu đã rất tinh tế khi so sánh chữ “trường” và “tràng” để thấy : “trường” chỉ có nghĩa là dài , còn “tràng” do “ang” là một âm mở rộng nên được cả dài lẫn rộng . Thế nghĩa là lớn , ứng với hình tượng một con sông lớn . Tràng giang gợi ra hình tượng một con sông chảy miên man giữa trời đất . Và với câu thơ đề : “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như thêm một lần nữa vén lên bức rèm , bước qua ngưỡng cửa để đi theo một hành lang mở thông vào vô biên.

Nhưng dầu sao những hình ảnh sống động của thế giới ấy có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với khổ thơ đầu gợi cho người đọc một nỗi buồn đìu hiu, xa vắng:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Một cảnh tượng sông nưóc mênh mang, bát ngát đang trải ra. Trên mặt sông rộng mênh mông ấy chỉ có “con thuyền” nhỏ “xuôi mái” rẽ nước “song song". Cái lẻ loi của con thuyền nhỏ càng làm nỗi bật cái mênh mông hoang vắng của sông rộng, và ngược lại., cái mênh mông của mặt sông càng tô đậm cảm giác lẻ loi, cô đơn của con thuyền đang xuôi dòng. Cái hình ảnh “thuyền về” một ngả, “nước lại” một đường cảm giác chia lìa, cho thấy một mối sầu lan tảo khắp trăm ngả” đất trời. Dòng Tràng giang trở thành dòng thời gian ấy, mọi cái đều buông trôi, thụ động: "Củi một cành khô lạc mấy dòng". Cái buông trôi, thụ động của hình ảnh "Con thuyền xuôi mái nước song song" bị đẩy đến mức tuyệt vọng hơn nữa. Cà khổ thơ có hình ảnh thơ và cả âm diệu thơ đều gợi buồn. Với sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối: buồn điệp điệp, nước song song, thuyền về - nước lại, một cành khô lạc mấy dòng, khổ thơ có một âm điệu điệu nhịp nhàng, trầm buồn. Đó cũng là giọng điệu chung của bài thơ.

Bước sang khổ hai với tầm nhìn rộng hơn, một không gian bao la gợi nên bức tranh vô biên của Tràng Giang:

“Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót;
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Câu trên tả cái có. Câu dưới tả cái không. Cồn nhỏ chỉ lơ thơ, gió chỉ đìu hiu. Có đấy mà không đáng kể gì. Tất cả đều chỉ là không: không tiếng làng xa, không một chuyến đò, không cầu gợi chút niềm thân mật. Những câu thơ như thế, đâu phải để tả những "lơ thơ cồn nhỏ", những "gió đìu hiu", hay "nắng xuống trời lên", mà thực ra chỉ để tả cái vô tận, không cùng và vắng lặng đến thành rợn ngợp của "Sông dài trời rộng, bến cô liêu". "Bến cô liêu" là một đặc điểm trong không giang cũng như có hồn người. Tả và gợi lại quyện vào nhau, cái tâm tình cứ luôn được toát lên từ tạo vật.

Khổ thơ tiếp theo lại thêm một nét chấm phá nữa vào bức tranh khung cảnh:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Không gian trải ba chiều: cao, rộng và dài. Tất cả đều chỉ là quạnh vắng với cô liêu. Tất cả đều chỉ là nhỏ bé, mơ hồ, mỏng manh trước cái vô tận, không cùng của vũ trụ. Vậy thì sao mà không khỏi thốt lên, than thở cho những số kiếp con người trôi dạt trên con sông thời gian. "Bèo dạt về đâu" ở chỉ số kiếp, chỉ thân phận chứ không đơn thuần dòng sông mặt nước. Hai câu thơ: “mênh mông không một chuyến đò ngang”, “ không cần gợi chút niềm thân mật” không phải là sự phủ định, mà là ao ước thiết tha nhưng vô vọng về hình bóng con người. Nếu hiểu đây chỉ là cách nói phủ định để nhằm làm nổi lên cái "dài", "rộng" và "cô liêu" thì ý nghĩa tâm tình mất đi nhiều, còn lại chỉ đơn thuần là thủ pháp, là kỹ thuật mà thôi.

Đến khổ thơ cuối bài, ta cảm nhận được điều gì đó ở Huy Cân: nỗi cô đơn càng thấm thía lúc hoàng hôn.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Mây đùn như núi, lớp lớp phía chân trời. Sự liên tưởng thật là độc đáo. Nhìn một cánh chim lẻ loi chao liệng mà thi sĩ tưởng như nó đang chịu sự đè nặng của cả vũ trụ, trời đất. Vũ trụ trời đất ấy lớn lao, không cùng không tận, dồn sức nặng vào bóng chiều làm chim phải nghiêng cánh, lệch cánh. Sự sống thật mỏng manh yếu ớt. "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" như tự nỗi niềm cất lên thành câu chữ. Cái tứ của bài thơ đến câu thơ cuối mới lộ ra. Cả bài thơ như thế là nỗi lòng bâng khuâng, cô tịch của một lữ khách "thiếu quê hương" đứng trước con sông thời gian, cái tôi bé nhỏ đòi khẳng định mà đành bất lực. Hai câu đầu là tạo vật, hai câu sau lại là tâm tình. Cảm hứng của cả một thời thơ mới trở thành độc đáo, mang cái "sầu thiên cổ" rất riêng của Huy Cận.

Tràng giang của Huy Cận không chỉ là một bức phong cảnh mà còn là “một bài thơ về tâm hồn”. Tạo vật với tâm tình là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" mang âm điệu thơ cổ điển. Và chính là tạo vật - tâm tình ấy cũng là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" trở thành Thơ mới ảo não vào bậc nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời. Qua Bài thơ, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, tình yêu nước thầm kín mà tha thiết.

Lưu biệt khi xuất dương

Lưu biệt khi xuất dương
- Phan Bội Châu -
Người dịch: Tôn Quang Phiệt


Phan Bội Châu, một trong những nhà nho Việt Nam đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm đường cứu nước mới. Ông đưa khát vọng cứu nước của mình vào trong thơ, và bài thơ “ Lưu biệt khi xuất dương” thể hiện khát vọng đó. Phan Bội Châu sáng tác bài thơ này sau khi quyết định lên đường sang Nhật Bản.

Bài thơ đã thể hiện rất sinh động tư thế, ý nghĩ của Phan Bội Châu trong buổi xuất dương tìm đường cứu nước. Hai câu đề nói rõ nhận thức của nhà thơ về chí làm trai - một nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:

“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.”

Thực ra chí làm trai chẳng phải đến bây giờ mới được Phan Bội Châu khẳng định. Trước đó, trong thơ trung đại, ta vẫn thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ nhắc đến (ở các bài Thuật hoài, Chí nam nhi). Nhưng điều đó không có nghĩa là ở bài thơ của Phan Bội Châu, lý tưởng nhân sinh kia đã mất đi sự mới lạ, thôi thúc. Nó chính là điều nung nấu bao năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình nâng cao tinh thần mình: đã làm trai là phải làm nên chuyện lạ, đó là trời đất không để "tự chuyển dời". Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình trong thời điểm ấy. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế của kẻ làm trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?”

Ý thức về cái "tôi" đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt. Đó là nhân vật trữ tình đang tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong lịch sử và cũng do sự thôi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về sự thực nhức nhối:

“Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.”

Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo một nội dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, "hiền thánh" thần tượng một thuở giờ còn đâu nữa. Hai câu thơ nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt khoát. "Hiền thánh còn đâu học cũng hoài" - đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục sôi của Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc.

Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách sôi trào, đầy dũng khí:

“Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”

"Vượt biển Đông" là cách nói có vẻ khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn ra. Người ra đi trong niềm hứng khởi vô biên "muôn trùng sóng bạc" tiễn chân như một yếu tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này.

”Lưu biệt xuất dương” là một khúc hát lên đường. Đề tài có tính chất truyền thống, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân – Phan Bội Châu.

ĐÂY THÔN VĨ DẠ

ĐÂY THÔN VĨ DẠ
- Hàn Mặc Tử -

Hàn Mặc Tử - một thi nhân với một cuộc đời hết sức lãng mạn và đầy bi kịch. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập thơ Điên của Hàn Mặc Tử được coi là một trong những kiệt tác của nền thơ ca Việt Nam. Bài thơ giải bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

Mờ đầu bài thơ, tác giả miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên và con người thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Câu đầu “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ trong cau hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Cảnh Vĩ Dạ được nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là màu xanh của cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng bâng khuâng, rồi thốt lên “mướt quá xanh như ngọc”. Sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Hai chữ “vườn ai” đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. thiếu nữ với khóm trúc vườn đầy đặn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu với “mặt chữ điền”, thể hiện một con người cương trực. Cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc, gương mặt chữ điền - năm nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng. Với nỗi niềm khắc khoải nhớ về miền quê Vĩ, Dạ Hàn Mặc Tử đã vẽ nên khung cảnh thanh bình, yên ả của Vĩ Dạ. Đây là sự sáng tạo của tác giả. Người dân thôn Vĩ rất tự hào về vẻ đẹp quê hưong mình. Tâm hồn họ quyện vào vẻ đẹp thiên nhiên, trời trong xanh, nước trong xanh, cây cối xanh mướt, trong lành.

Đến khổ thơ thứ hai, tác giả dồn tình cảm của mình để khắc hoạ nét đẹp riêng của mây trời, sông nước xứ Huế:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Một không gian nghệ thuật, một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Nhịp điệu khoan thai thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. “Gió” với “mây” đôi ngả phân li như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở., nhiều bâng khuâng, man mác.. “Dòng nước buồn thiu” chỉ dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ “lay” nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng cũng gợi buồn. Nếu khổ một nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Thì khổ hai, nói đến “bến sông trăng”, bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Nó gợi lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng. Bến sông trăng còn đó,
nhưng con thuyền tình có kịp chở trăng về tối nay?

Khổ thơ cuối của bài thơ lả hình ảnh cô gái, người tình, như gần, như xa, như thực, như mơ, vừa thân thiết, vừa xa vời… hiện ra như một ảo ảnh:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc đời phải sống trong cô đơn bệnh tật. Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả bốn lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi với trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhoà và mờ đi cùng sương khói.

“Đây thôn Vĩ Dạ” ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình – tình trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm điệu thiết tha, tình tứ. Tình cũng rất đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Từ cõi thực chìm dần vào cõi mộng. Ngay từ đầu, cảnh và người thôn Vĩ cùng hiện ra như một hình dung trong mơ ước; đến khổ thứ hai đã tràn đầy mộng ảo, sang khổ thứ ba mộng toàn phần... Vì là sản phẩm của một trạng thái mơ, nên giữa các khổ thơ có vẻ “đầu ngô, mình sở”, không tuân theo lô-gíc nào cả. Nó phi lô-gíc bề mặt, nó đồng hiện và đột hiện. Nhưng nó có lô–gíc chiều sâu: tiếng của một tình yêu tuyệt vọng, thảng thốt và đau đớn... Các câu hỏi tu từ trong bài thơ không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác sâu lắng, bồi hồi, thiết tha. Hàn Mặc Tử đã mở đầu bài thơ bằng câu hỏi tu từ và bài thơ khép lại với câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” … “Ai biết tình ai có đậm đà”. Câu hỏi ở cuối bài thơ dường như cũng là câu trả lời cho câu hỏi mở đầu bài thơ, thể hiện sự khao khát yêu và được yêu của nhà thơ. Đó cũng là khát vọng sống, khát vọng giao tiếp với cuộc đời của Hàn Mặc Tử.

Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ... bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác.

Bài đăng Phổ biến