Trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn ngữ văn 12. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ngữ văn 12. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012

Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu




Câu 1: Dựa vào văn bản (cả phần lược bỏ và phần trích), hãy tóm tắt cốt truyện Chiếc thuyền ngoài xa.

Phóng viên nhiếp ảnh Phùng được trưởng phòng đề nghị đi chụp một cảnh biển buổi sáng có sương mù để bổ sung vào bộ ảnh lịch nghệ thuật về thuyền và biển. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển miền Trung, từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Phùng đã “phục kích” mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định thu vào chiếc máy ảnh cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh với “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Nhưng chính từ chiếc thuyền ngoài xa với vẻ đẹp tuyệt đỉnh, toàn bích ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài, và lão đàn ông hùng hổ dùng “chiếc thắt lưng của lính ngụy” thẳng tay quật tới tấp vào người vợ, trong khi người vợ nhẫn nhục chịu đựng, “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Phùng chưa kịp xông ra can ngăn thì thằng bé Phác, con lão, đã kịp chạy tới giằng chiếc thắt lưng quật vào người bố để che chở người mẹ. Biết Phùng chứng kiến tình cảnh của gia đình nó, thằng bé Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái rượt đuổi thằng em trai để tước con dao găm thằng bé giấu trong cạp quần, định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Không thể nén chịu hơn được nữa, Phùng xông ra đánh nhau với lão đàn ông và bị thương nhẹ. Anh nán lại ở vùng biển mấy ngày theo lời mời của Đẩu. Người đàn bà, lần thứ hai, được Đẩu mời đến tòa án huyện. Ở đây, Phùng và Đẩu đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao sự cảm thông, ngỡ ngàng, ngạc nhiên và vỡ lẽ ra nhiều điều. Những tấm ảnh Phùng mang về, trưởng phòng “rất bằng lòng” và chọn lấy một tấm đưa vào bộ lịch năm ấy và sau này “vẫn còn được treo ở nhiều nơi”. Tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, Phùng “vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, và bao giờ anh “cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”, “hòa lẫn trong đám đông...”.

Câu 2: Chiếc thuyền ngoài xa được tổ chức xung quanh một tình huống truyện như thế nào? Anh/chị có nhận xét gì về cách tạo tình huống truyện của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này? Cách tạo tình huống truyện như vậy có tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa của tác phẩm?

Về tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa, có người cho là tình huống nhận thức, người khác coi là tình huống nghịch lí, lại có người cho rằng nó gồm cả hai nhưng không đồng đẳng. Quả thực, qua câu chuyện gia đình hàng chài ta thấy nổi lên một tình thế nghịch lí: chồng đánh vợ, con đánh bố; người vợ tốt mà luôn bị chồng đánh đập tàn bạo; bị chồng hành hạ đau đớn mà vẫn nín thinh, thậm chí xin được đưa lên bờ mà đánh; nhìn con đánh bố để che chở cho mình thì lại van xin khóc lóc... Một cuộc sống như thế còn gì nghịch lí hơn? Nhưng sự kiện bao trùm lên cả thiên truyện, đó không phải là cuộc sống đầy nghịch lí của gia đình hàng chài mà là chuyến đi thực tế tới làng chài của nghệ sĩ Phùng để chụp một bức ảnh theo đề nghị của trưởng phòng. Trong chuyến đi này, Phùng đã phát hiện ra những nghịch lí, làm phá vỡ hoàn toàn sự nhận thức lâu nay của mình về thực trạng cuộc sống và về sự trái ngược giữa thực trạng cuộc sống với ý đồ nghệ thuật của trưởng phòng. Trong vai người kể chuyện, Phùng không chỉ muốn kể về nghịch cảnh của một gia đình hàng chài, mà muốn trình bày những “vỡ lẽ” trong hành trình nhận thức quanh co mà cả người nghệ sĩ lẫn vị thẩm phán trải qua. Bởi vậy, tình huống bao trùm thiên truyện là một tình huống nhận thức, còn cái tình huống nghịch lí của gia đình hàng chài chỉ là một tình huống nhỏ được lồng trong đó.

Tạo được một tình huống truyện vừa đan lồng (tình huống nhỏ lồng vào tình huống lớn) vừa đồng tâm (cả người nghệ sĩ nhiếp ảnh lẫn vị thẩm phán đều trải qua một hành trình nhận thức quanh co để “vỡ ra” chân lí), mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, đó là nét độc đáo trong cách tổ chức tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Cách tạo tình huống truyện như vậy vừa có tác dụng hấp dẫn, lôi cuốn người đọc vừa làm nổi bật được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Câu 3: Anh/chị hãy phân tích quá trình nhận thức của hai nhân vật Phùng và Đẩu. Qua hai nhân vật này nhà văn muốn nói lên điều gì?

Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong cảnh “thật là thơ mộng”, để chụp bổ sung vào bộ ảnh lịch một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Và anh đã phát hiện thấy “một cảnh “đắt” trời cho”, cảnh “chiếc thuyền ngoài xa” với đường nét, màu sắc “đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện”, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong ngần, ngập tràn hạnh phúc trước “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, khiến anh chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Nhưng ngay sau đấy, anh bất ngờ chứng kiến đến hai lần cái cảnh bạo hành tồi tệ, dã man, nhức nhối của chính cái gia đình sống trên chiếc thuyền “thơ mộng” đó. Trước nghịch cảnh ấy, điều gì đang “vỡ ra” trong nhận thức của nghệ sĩ Phùng? Phải chăng đó là cái vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng thường che lấp cái sự thực bên trong? Bởi vậy, người nghệ sĩ sẽ không bao giờ hiểu thấu được sự thực ở đời nếu chỉ nhìn cuộc sống từ ngoài, từ xa. Và, nghệ thuật chỉ “chụp ảnh” cái bề ngoài là một thứ nghệ thuật giả dối, phi đạo đức. Không chỉ có vậy. Chứng kiến câu chuyện người đàn bà hàng chài kể lể ở tòa án, Phùng còn vỡ lẽ thêm nhiều điều khác. Thì ra, ở người đàn bà hàng chài, đằng sau sự nhẫn nhục chịu đựng xúc phạm, hành hạ, là đức hi sinh lớn lao của tình mẫu tử; đằng sau vẻ ù lì thất học, lại là một người "thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời"… Và, khuất sau hành vi côn đồ, vô đạo của thằng con đánh bố, là tình thương sâu nặng dành cho người mẹ. Chưa hết, điều vỡ lẽ bất ngờ, sâu sắc hơn ở Phùng là những nhận thức về cái lão hàng chài "độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian". Ban đầu, với nhận thức giản đơn Phùng đinh ninh cái xấu cái ác ở lão có nguồn gốc từ phía địch, hoặc từ rượu chè hay từ bản tính của lão. Hóa ra không phải. Lão không đi lính ngụy mà trốn lính. Rượu chè cũng không. Bản tính lão vốn “cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập vợ". Và bây giờ, mỗi khi đánh vợ, lão cũng "rên rỉ đau đớn". Không phải từ bản tính, từ rượu chè, từ phía địch. Vậy thì từ đâu? Hóa ra, cái ác cái xấu ở lão là do lão bị cầm tù trong cuộc sống quẩn quanh, đói khổ, trong tập quán lạc hậu, khiến bị thui chột ý thức về nhân phẩm, về giá trị người, giá trị sống, cho nên lão chà đạp lên nhân phẩm, giá trị người mà vẫn không hay biết. Hóa ra, lão đàn ông vừa là tội phạm, lại vừa là nạn nhân. Đối mặt với những sự thực ấy, điều gì đang “vỡ ra” trong đầu nghệ sĩ Phùng? Phải chăng người nghệ sĩ nếu chỉ nhìn nhận giản đơn, sơ lược thì không thể phát hiện được cái khuất lấp, cái bề sâu của cuộc đời và con người. Bởi vậy, người nghệ sĩ phải biết dấn thân vào cuộc đời, phải có cái nhìn bề sâu, đa diện, nhiều chiều mới có thể phát hiện ra sự thật và cái đẹp thường bị che lấp bởi cái vẻ đẹp bên ngoài, cái xấu bề nổi của cuộc sống và con người.

Đẩu là một vị chánh án huyện, vốn trước đây là một người lính, nên với lối nghĩ thời chiến, anh tin luật pháp công bằng và thiện chí của mình sẽ giúp thay đổi số phận người đàn bà hàng chài. Anh đã giáo dục, răn đe chồng bà ta nhiều lần nhưng không mấy kết quả. Thấy "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng", anh nghĩ bà ta “không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy” nên đành gợi ý bà ta bỏ chồng để khỏi bị hành hạ. Nhưng bà ta vẫn khăng khăng gắn bó, lạy lục van xin đừng bắt bỏ chồng. Đẩu đã phải thốt lên "không thể nào hiểu được!". Đến khi thấu hết lời người đàn bà hàng chài, trong đầu vị chánh án cấp huyện ấy có “một cái gì vừa mới vỡ ra”. Cái điều “vỡ ra” ấy, phải chăng là anh đã có thể hiểu được những nghịch lí của đời sống mà con người phải chấp nhận? Phải chăng trong cuộc sống, bao việc tưởng vô lí nhưng xem ra lại có lí riêng; nhiều chuyện ngỡ đơn giản, kì thực, hết sức phức tạp? Không thể đem thiện chí và ý chí đơn thuần giải quyết mà xong được.

Câu 4: Phân tích tính cách người đàn bà hàng chài (chú ý những lời giải bày của người đàn bà ở tòa án huyện); qua đó phát biểu cảm nghĩ của anh/chị về nhân vật này.

Trong tác phẩm, tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định, không có tên tuổi cụ thể, nhưng số phận nhân vật này lại được tác giả tập trung thể hiện với thái độ đáng cảm thông, chia sẻ nhất. Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà hàng chài gợi ấn tượng về một cuộc đời cực nhọc, lam lũ. “Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”. Với chồng, một lão đàn ông vũ phu thường xuyên đánh đập, hành hạ dã man “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, bà vẫn thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Nhưng sự cam chịu, nhẫn nhục của bà không phải mù quáng mà thương xót và thấu hiểu hơn ai hết, vì bà cũng như bao người đàn bà vùng biển khác “cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng một sắp con”. Với con, bà là một người mẹ thương yêu vô bờ, tận tâm, che chở cho con, biết chịu đựng, hi sinh để “sống cho con chứ không thể sống cho mình”, bà lo sợ con làm điều dại dột, cố tránh cho con khỏi bị tổn thương. Trước vị chánh án huyện, bà tự tin, sắc sảo, thông cảm và bộc bạch thành thực những suy nghĩ của mình. Qua những lời giải bày thật tình của bà ở tòa án huyện, ta càng thấy rõ mọi sự chịu đựng, hi sinh, gánh lấy khổ đau của bà chỉ vì để sống cho con, nuôi con khôn lớn. Một sự cam chịu, nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Bà là một tính cách người mẹ khó nhọc, lam lũ, cam chịu mà nhân hậu, giàu lòng vị tha, đức hi sinh. Người mẹ hàng chài ấy chẳng phải là bóng dáng của biết bao người phụ nữ, bà mẹ Việt Nam đó sao?

Câu 5: Anh/chị thử tìm những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài. Chi tiết lão đàn ông rút “chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa”, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, ngay ở bên “chiếc xe rà phá mìn của công binh Mĩ” có phải là một sự gợi ý về nguyên nhân của tình trạng này không? Anh/chị có nhận xét gì về tư tưởng nhân đạo của tác giả khi đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình?

Trong tác phẩm, cảnh lão đàn ông hành hạ, đánh đập vợ tàn bạo bằng “chiếc thắt lưng của lính ngụy” thường diễn ra bên những chiếc xe tăng và xe rà phá mìn sét gỉ trên bãi biển – là những thứ tàn tích sau chiến tranh – là một sắp đặt đầy dụng ý của tác giả. Tuy nhiên, tái hiện những hình ảnh này, Nguyễn Minh Châu không hề giản đơn để ám chỉ về cái xấu và cái ác kia như một thứ tàn tích của chiến tranh. Phải chăng trong những hình ảnh ấy còn hàm chứa một ẩn ý bề sâu? Đó là bạo lực chiến tranh do kẻ địch gây ra đã bị tiêu diệt còn chưa lùi xa, thì đã sinh ra thứ bạo lực khác, dai dẳng và đáng sợ hơn nhiều. Là vì thứ bạo lực này chà đạp lên phẩm giá người, hủy hoại nhân tính, làm tha hóa cuộc sống con người, nhưng nó lại khó nhận ra, khó tiêu diệt hơn. Nhưng thứ bạo lực đáng sợ này sinh ra từ đâu? Qua tính cách lão đàn ông hàng chài, người đọc có thể thấy nó nằm sẵn trong lão, nó sinh ra từ tình trạng đời sống đói khổ, tăm tối, từ sự lạc hậu, mông muội, khiến lão bị thui chột ý thức về nhân tính, về tư cách người, giá trị người, vì thế lão chà đạp lên nhân phẩm, giá trị người mà vẫn không nhận ra.

Đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài – chồng đánh vợ, con đánh bố, Nguyễn Minh Châu đã làm dấy lên nỗi xót thương và niềm lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị hành hạ, ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sẽ sớm nhiễm thói vũ phu thô bạo, tồi tệ do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào gia đạo, cuộc sống. Tác giả không chỉ lên án bạo lực, phê phán sự lạc hậu, mông muội, không chỉ bày tỏ tình thương yêu đối với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, khổ đau mà còn cảnh báo một nguy cơ đáng sợ: nếu không giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối, lạc hậu thì không thể tiêu diệt được cái xấu cái ác. Chính nhà văn đã chỉ ra điều này trong lời kể đầy ẩn ý: “… cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết – nếu không có cách mạng về”. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của thiên truyện.

Câu 6: Tên truyện là Chiếc thuyền ngoài xa. Gần cuối truyện, hình ảnh chiếc thuyền ấy lại hiện lên trước một cơn giông tố lớn đang ập đến. Anh/chị có nhận xét gì về dụng ý nghệ thuật và ý nghĩa thể hiện qua chi tiết này?

Tên truyện Chiếc thuyền ngoài xa rõ ràng hàm chứa một ẩn ý của nhà văn. Qua nội dung câu chuyện, hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa nơi nhan đề gắn với cái đẹp “tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, cái đẹp “toàn bích, toàn thiện”, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình hàng chài trên con thuyền ấy biết bao khó nhọc, lam lũ, khổ đau, bất hạnh, bạo hành tồi tệ. Thì ra hình ảnh chiếc thuyền nhìn từ xa rất khác với nhìn gần; nhìn từ xa thì thấy thơ mộng, tuyệt đỉnh; nhìn gần thì thấy sự thực tàn bạo, tồi tệ, nhức nhối. Đó là nghịch lí giữa cái đẹp bên ngoài và sự thực xấu xa, tồi tệ bên trong mà một cái nhìn giản đơn, sơ lược không thể phát hiện khám phá ra được. Nhan đề truyện là một khái quát giản dị về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống và là một ẩn dụ tượng trưng cho cái nhìn nghệ thuật về cuộc đời và con người.

Gần cuối truyện, vẫn là hình ảnh chiếc thuyền ấy, nhưng trước một cơn giông tố lớn đang ập đến. Hàm ý tượng trưng ẩn ở tầng sâu hơn. Đó không giản đơn là một cảnh báo với niềm lo âu về một nguy cơ cuộc sống trước cơn bão bạo lực mà là một dự cảm với chiều sâu nhân đạo về cơn bão cách mạng để tiêu diệt cái ác, để đổi thay cuộc sống, giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối để con người được sống xứng đáng là con người.

Câu 7: Phân tích đoạn văn cuối truyện (“Không những trong bộ lịch năm ấy …, hòa lẫn trong đám đông…”); qua đó phát biểu nhận xét về quan điểm nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.

Đoạn văn cuối truyện là một ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng. Là một nghệ sĩ say mê, nhạy cảm trước cái đẹp “toàn thiện, toàn bích”, anh đã thực sự xúc động, ngỡ ngàng, cảm thấy “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn” trong cái khoảnh khắc phát hiện “cái đẹp tuyệt đỉnh” của chiếc thuyền ngoài xa hòa vào “bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Và anh đã chủ tâm chụp lấy bức ảnh “không có người. Hoàn toàn là thế giới tĩnh vật” như trưởng phòng mong muốn. Nhưng anh không ngờ chính trên chiếc thuyền ấy là một gia đình hàng chài đang sống trong tình trạng bạo hành, dã man, tồi tệ. Trước sự đối lập, nghịch lí giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” với cuộc sống lầm than, cay cực của gia đình hàng chài, anh đã day dứt, trăn trở, trải qua một cuộc đối chất riết ráo giữa thứ nghệ thuật “hoàn toàn tĩnh vật” mà vị trưởng phòng mong muốn với nghệ thuật vì sự thực ở đời, vì những kiếp lầm than. Điều này đã luôn ám ảnh anh, đến nỗi sau này, mỗi lần nhìn ngắm bức ảnh chụp cảnh biển buổi sáng có sương, “tuy là ảnh đen trắng” nhưng anh “vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, và “bao giờ cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Cái ám ảnh, cái ấn tượng lạ lùng này của Phùng cho thấy trong sâu thẳm nhận thức, tư tưởng của anh, anh đã li khai với thứ nghệ thuật “màu hồng” xa lạ với sự thật về đời sống và con người; lòng người nghệ sĩ này đã thấu hiểu nghệ thuật chân chính luôn là sự thực ở đời, là vì cuộc đời, vì những kiếp lầm than; nó không thể nhân danh bất cứ điều gì để lảng tránh sự thật về con người, mà phải có trách nhiệm can dự vào cuộc đời, phải góp tiếng nói tích cực vào việc giải phóng con người khỏi sự cầm tù của nghèo đói, tăm tối và bạo lực để con người có một cuộc sống xứng đáng với con người. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn này mà nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa là một ẩn ý về tuyên ngôn đó. - Tuy nhiên, ý nghĩa của đoạn kết truyện không chỉ dừng lại ở đấy. Câu văn “và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, […] Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” chứa đựng chiều sâu ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm. Phải chăng tình trạng khốn khổ, cay cực của người đàn bà hàng chài kia không hề là cá biệt, mà trong đám đông kia, ai cũng là một người như thế. Câu văn canh cánh một niềm lo âu ấy không chỉ thể hiện tình thương yêu đối với những kiếp lầm than, cay cực mà còn là tiếng kêu giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối, lạc hậu, để có thể xóa bỏ được cái xấu cái ác, làm cho con người được sống xứng đáng với con người. Muốn vậy, không còn giải pháp nào khác ngoài con đường cách mạng. Ấy là một cuộc cách mạng diệt trừ cái xấu cái ác, xóa bỏ các thứ bạo lực để con người ngày càng hoàn thiện, đất nước ngày càng đẹp tươi. Cuộc cách mạng ấy đã và đang về, chứ không còn là dự cảm, là kì vọng đau đáu của một nhà văn suốt đời không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của người cầm bút – Nguyễn Minh Châu.

Câu 8: Anh/chị có nhận xét gì về ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật và giọng điệu trần thuật trong Chiếc thuyền ngoài xa?

Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa cũng rất đáng chú ý. Trong truyện, người kể chuyện là nhân vật Phùng - thực ra là sự hóa thân của tác giả. Cách chọn người kể chuyện như vậy tạo ra được một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng phát hiện khám phá đời sống được nhận thức, làm cho lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu, lời lẽ lão đàn ông vũ phu đầy vẻ tục tằn, thô bỉ, tàn nhẫn, hung bạo; lời lẽ của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; lời lẽ của Đẩu ở tòa án huyện rõ là giọng của một người tốt bụng, nhiệt thành,... Lối sử dụng ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật rất phù hợp, linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề tư tưởng của thiên truyện.

Nét đặc sắc trong ngôn ngữ kể chuyện của truyện Chiếc thuyền ngoài xa là giọng điệu trần thuật – phần hồn của lời kể. Nó bộc lộ thái độ cảm xúc của chủ thể, là một hiện thân của tư tưởng tác giả. Trong truyện ngắn này, nhân vật trưởng phòng là đối tượng bị phê phán. Nhưng thái độ phê phán ở đây không bộc lộ qua giọng điệu, lời lẽ gay gắt, trực diện – như thế thì bất lợi và thất cách – mà giấu thật kĩ, thật sâu đằng sau cái giọng khách quan, bình thản, có khi là giọng tán dương, hàm ơn, hay chỉ là giọng phàn nàn vô hại, qua những lời lẽ có vẻ đề cao vị trưởng phòng, nào là "sâu sắc", "lắm sáng kiến", nào là "quả quyết", "cặp mắt đầy tinh khôn,… Ngay cả khi nói đến cái chủ trương làm bộ lịch ảnh về thuyền và biển, "không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật" rất đáng phê phán của vị trưởng phòng thì tác giả cũng chỉ kể lại một cách khách quan bình thản. Vì thế mà thoáng đọc, người đọc khó nhận ra thái độ phê phán ẩn sâu trong những đánh giá có vẻ ưu ái ấy. Thế nhưng, khi người đọc phát hiện ra sự đối lập gay gắt giữa thứ nghệ thuật mà vị trưởng phòng muốn với cái thực trạng tồi tệ của hiện thực đời sống thì cái ý vị mỉa mai, chua xót, sâu cay trong giọng điệu trần thuật của người kể chuyện mới bật lên sau những lời lẽ có vẻ tán dương, đề cao kia. Cũng như vậy, người đọc có thể nhận ra thái độ mỉa mai, chua xót, cay đắng của tác giả đằng sau những lời mô tả đầy hoa mĩ, thơ mộng, lãng mạn, ngây ngất của Phùng trước cái đẹp được coi là “tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” ở phần đầu truyện, khi người đọc chứng kiến cái thực trạng dã man, tồi tệ, phi đạo đức được bày ra ở phần sau truyện, cùng với những đau xót sâu sắc và chân thực của Phùng… Nén thái độ vào giọng, giấu giọng vào mạch, dùng tình huống để đảo lộn giọng trong lời kể, đó là một tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Minh Châu qua thiên truyện.

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP HỌC KÌ I - NGỮ VĂN 12

LÝ THUYẾT GIÁO KHOA

1/ Nêu đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam  1945 - 1975

-  Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.
-  Nền văn học hướng về đại chúng
-  Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

2/ Quan điểm sang tác văn học nghệ thuật của Hồ Chí Minh?

-  Văn học là vũ khí chiến đấu lợi hại, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Nhà văn cũng có tinh thần xung phong như người chiến sĩ ngoài mặt trận.
-  HCM luôn chú trọng đến tính chân thực và tính dân tộc của văn học
-  Chú trọng đến đối tượng tiếp nhận- Viết cho ai? Viết cái gì?Viết như thế nào?

3/ Mục đích và đối tượng của Bản Tuyên ngôn độc lập?

-  Khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ; đồng thời còn là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ lí lẽ của thực dân Pháp xâm lược, của đế quốc Mĩ…
-  Tuyên bố với đồng bào cả nước và nhân dân thế giới về quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam

4/ Phong cách thơ Tố Hữu?

-   Mang tính trữ tình chính trị sâu sắc
-   Mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn
-   Giọng thơ chân tình ngọt ngào đằm thắm
-   Nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc.

5/ Vì sao nói hình thức nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc đậm đà tính dân tộc?

-   Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ của ca dao với hai nhân vật trữ tình là “Ta- Mình”, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau.
-   Sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, có tác dụng nhấn mạnh và làm nhịp thơ hài hoà, uyển chuyển.
-   Ngôn Ngữ thơ: Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân giản dị, mộc mạc.
-   Giọng thơ trữ tình ngọt ngào tha thiết

6/ Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Việt Bắc?

-   VB là quê hương CM, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở, đùm bọc cho Đảng, CP,bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ
-   Sau chiến thắng ĐBP, tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, hoà bình trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng
-   Tháng 10-1954, các cơ quan TƯ của Đảng và CP rời chiến khu VB về TĐô- HN
-   Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của CM được mở ra. Nhân sự kiện trọng đại này, TH viết bài VB

7/ Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến?

-   Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947;
-   Địa bàn chiến đấu :Tây Bắc- Thượng Lào, hoang vu, hiểm trở;sinh hoạt gian khổ, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội.
-   Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn  là thanh niên Hà Nội hào hoa, lãng mạn, lạc quan và dũng cảm trong chiến đấu.
-   QD làm đại đội trưởng, khi chuyển sang đơn vị khác ,ông viết bài Tây Tiến(1948)để nói lên nỗi nhớ của mình.

8/ Câu đề từ - đàn ghi-ta của Lor-ca

LÀM VĂN

1/Tâm trạng tác giả khi nhớ về Tây Bắc và đồng đội trong đoạn thơ sau:
          “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
            ……………………………
           Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” 
                                        ( Tây Tiến – Quang Dũng)

-   Cần xác định rõ mối quan hệ của đoạn thơ với toàn bộ tác phẩm.
-   Xác định rõ tâm trạng trữ tình và những biểu hiện của mạch cảm xúc trữ tình trong đoạn trích:
  + Nỗi nhớ gắn với núi rừng Tây Bắc hoang vu, hiểm trở
  + Nõi nhớ đồng đội: hình ảnh người lính trên con đường hành quân gian khổ
  + Sự tương phản- hoà hợp giữa cảnh hoang dã dữ dội với vẻ đẹp ngọt ngào thơ mộng trong tâm hồn ngườilính.
-   Cần bám sát từ ngữ, hình ảnh cụ thể đề làm rõ tâm trạng nhân vật trữ tình khi nhớ về Tây Bắc và đồng đội…

 2/ Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ:
              “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
                 …………………………………..
               Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

-   Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến:
 + Hình tượng người lính TT mang vẻ đẹp hào hung, có bóng dáng của các tráng sĩ thời xưa nhưng cũng rất thời đại, rất  mới mẻ . Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh liệt với quê hương đất nước, tình yêu cuộc sống làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến đấu gian khổ.
 + Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh gian khổ của người lính được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không bi luỵ
-   Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn:
 + Không chỉ ở dáng vẻ “oai hùm” phóng túng mà luôn thăng hoa trong tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh.
 + Chất lãng mạn và chất anh hung không tách rời mà hoà nhập vào nhau tạo nên một vẻ đẹp vừa lí tưởng vừa hiện thực của hình tượng thơ.

3/ Cảm nhận của anh chị về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau:
            “ Ta về mình có nhớ ta
              ……………………..
               Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
                            ( Việt Bắc- Tố Hữu)

-   Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người VB hiện lên thật đẹp. Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về VB là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh và người, là ấn tượng không thể phai mờ về người VB cần cù trong lao động, thuỷ chung tình nghĩa trong đoạn thơ trên
-   Thiên nhiên VB hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng, phong phú sinh động, thay đổi theo từng mùa
-   Gắn bó với khung cảnh ấy là con người bình dị: người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng…..Bằng những việc làm nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh của cuộc kháng chiến
-   Âm hưởng trữ tình tạo nên khúc ca ngọt ngào đằm thắm của tình đồng chí, đồng bào, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước…

 4/ Phân tích đoạn thơ:
            “ Những đường Việt Bắc của ta
               ……………………………..
              Vui từ Việt Bắc đèo De, núi Hồng”

-   Khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc( 8 câu đầu)
 + Toàn cnảh quân dân ra trận chiến đấu với khí thế hào hung, sôi sục, khẩn trương
 + Hình ảnh  bộ đội hành quân ra trận với vẻ đẹp hào hùng lãng mạn
 + Dân công phục vụ kháng chiến
-   Khí thế chiến thắng của các chiến trường khác (4 câu)
-   Nghệ thuật sử dụng hình ảnh, ngôn từ: từ láy, động từ, tính từ gợi tả, phép tu từ, giọng thơ; chất sử thi hào hùng, tính lãng mạn tương trưng.

5/ Nêu những nét độc đáo trong nghệ thuật biểu hiện của đoạn trích “ Đất Nước- Mặt đường khát vọng”:

-   Kết cấu đoạn trích chia làm hai phần, mỗi phần trả lời những câu hỏi nhất dịnh ngầm ẩn sâu xa trong mạch thơ: đất Nước có từ bao giờ? Cội nguồn từ đâu? Đất Nước là gì? Đất Nước của ai? Ai làm nên ĐN? Tất cả lien kết thành một hệ thống khá chặt chẽ, thể hiện hướng tìm tòi đầy trí tuệ của NKĐ.
-   Chất liệu nghệ thuật : Sử dụng sang tạo các chất liệu văn hoá dân gian từ tục ngữ, thành ngữ, ca dao, truyền thuyết….đến phong tục tập quán và sinh hoạt hằng ngày. Điều đó tạo cho đoạn trích một không gian nghệ thuật riêng hết sức quen thuộc gần gũi mà lại diệu kì, bay bổng. Đó là không gian nghệ thuật kết tinh tâm hồn, trí tuệ  của nhân dân.
-   Bút pháp trữ tình - chính luận: những tri thức văn hoá được kiểm nghiệm trong thực tế, trong sự nhập cuộc vào đời sống nhân dân; sự hài hoà của cảm xúc và suy nghĩ, những lí lẽ sắc sảo qua hình thức thơ gợi cảm, giọng thơ thiết tha sôi nổi.
-   Hình thức thơ: Mượn hình thức trò chuyện tâm tình của TY nam nữ với dòng thơ tự do, nhạc điệu linh hoạt, đoạn trích này giống như một tuỳ bút bằng thơ gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

6/ ĐN được cảm nhận với sự thống nhất của 3 phương diện: chiều sâu văn hoá, chiều rộng của không gian, chiều dài về thời gian. Anh chị hiểu điều đó như thế nào?

-   Chiều sâu văn hoá:
  + ĐN là nơi sinh tồn của ông bà, tổ tiên, là nơi con người được sinh ra, là quê hương.
  + ĐN gắn với phong tục tập quán, ca dao, cổ tích, sinh hoạt thường ngày có từ bao đời của người Việt
-   Về không gian:
  + ĐN là những gì gần gũi, quen thân với cuộc sống của mỗi người, là ngôi trường, là bến nước, là mảnh đất ta sinh ra và lớn lên, là quê hương của tình yêu, của kỉ niệm yêu thương.
 + ĐN là không gian rộng lớn, là núi rừng song bể, là nơi chốn sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ.
Về thời gian: ĐN được cảm nhận từ quá khứ nghìn xưa với huyền thoại “ LLQ-ÂC” cho đến hôm nay với ngày giỗ tổ Hùng Vương trong tâm hồn người Việt. Bức thông điệp huyết thống “ con Rồng cháu Tiên” sẽ truyền mãi qua các thế hệ.

7/ Nêu suy nghĩ của anh chị về nhận xét: Ở phần cuối, tư tưởng “ĐN của Nhân dân” đã thể hiện tập trung trong sự cảm nhận tính cách con người Việt Nam
                            “ Để Đất Nước này là ĐN của Nhân dân
                                 ……………………………………..
                              Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

-   Câu thơ : “ ĐN của Nhân dân, ĐN của ca dao thần thoại” là một cách định nghĩa về ĐN thật giản dị mà độc đáo.
-   ĐN được tạo nên bởi sức mạnh và tình nghĩa của nhân dân, ĐN là của Nhân dân; muốn hiểu ĐN phải hiểu nhân dân và vẻ đẹp tâm hồn tính cách của nhân dân, hơn đâu hết có thể tìm thấy trong văn hoá tinh thần của nhân dân: văn hoá dân gian, thần thoại, cổ tích, ca dao….
-   Trong kho tàng ca dao, nhà thơ chọn 3 câu tiêu biểu để nêu bật 3 đặc điểm quan trọng trong tín cách truyền thống của nhân dân  : Say đắm trong TY, quý trọng tình nghĩa, quyết liệt trong chiến đấu.

 8/ Giữa sóng và em trong bài thơ “ Sóng” ( XQ) có mối quan hệ như thế nào? Nêu nhận xét về nghệ thuật kết cấu của bài thơ.

-   Sóng là hình ảnh, là biểu tượng cho tâm hồn người con gái đang yêu- một kiểu của cái tôi trữ tình. Em là cái tôi trữ tình của nhà thơ.Sóng và em có lúc phân đôi, có lúc hoà nhập để nói lên cảm xúc, tâm trạng phong phú, phức tạp nhiều khi mâu thuẫn nhưng thống nhất trong  tâm hồn người con gái đang yêu
-   Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức tương đồng, hoà hợp giữa hai hình tượng trữ tình: Sóng và em. Sóng biểu xôn xao triền mien, vô tận gợi liên tưởng đến song lòng dạt dào đầy khát khao TY, hạnh phúc. Song hành với sóng là em. Cấu trúc song hành này góp phần tạo nên chiều sâu nhận thức và nét độc đáo của bài thơ.

 9/ Cảm nhận về tâm hồn người phụ nữ đang yêu qua bài thơ Sóng

-   Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lí của tâm hồn khao khát yêu đương đang tìm đến một tình yêu rộng lớn (K1)
 + Những trạng thái, những cung bậc phức tạp trong trái tim yêu
 + khát khao tìm được sự đồng cảm, đồng điệu, vươn tới cái lớn lao, cao đẹp
-   Khát vọng TY là khát vọng muôn đời của nhân loại, nhất là tuổi trẻ (K2)
-   TY là một điều bí ẩn thiêng liêng, như song biển, như gió trời khó có thể lí giải được . XQ đã cắt nghĩa TY một cách hồn nhiên, trực cảm (K3,4)
-   TY gắn với nỗi nhớ (K5)
-   TY phải vượt qua thử thách trắc trở để khẳng định lòng chung thuỷ(K6,7)
-   Khát vọng về một TY vĩnh hằng ( K8,9)

 10/ Nêu những nét đặc sắc của ngôn từ nghệ thuật trong bài thơ “ Đàn Ghita của Lor ca”:

-   Bài thơ như giai điệu một bản nhạc, có phần nhạc đệm của Ghi ta. Chuỗi âm li la li la li la….mở đầu và kết thúc bài thơ gợi lên tiếng vang giàu nhạc điệu.
-   Ngôn ngữ diễn tả âm thanh theo lối tượng trưng, lien tục chuyển đổi cảm giác, màu sắc: tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta xanh; hình ảnh động: tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
-   Màu sắc gắn với cảm xúc và suy tưởng: áo choàng đỏ gắt, áo choàng bê bết đỏ, chiếc ghi ta màu bạc
-   Hình ảnh giàu sắc thái tượng trưng: ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim mình vào lặng im
-   Hệ thống ngôn ngữ giàu sắc thái tu từ: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ…

 11/ Tìm hiểu hình tượng Sông Đà

a. Sông Đà hung bạo, dữ dội:
-   Cảm hứng mãnh liệt về vẻ đẹp hoang sơ, kì vĩ của sông Đà:
 + Thành vách dựng đứng, dòng chảy ghê gớm, thác đá
 + Sức mạnh của gió, sóng, đá
 + Những hút nước ghê rợn
 + Những thác nước  bày thế trận như một bầy thuỷ quái hung bạo
-   Giọng văn phóng túng, ngôn từ phong phú giàu giá trị tạo hình
b. Sông Đà thơ mộng, trữ tình
-   Một vẻ đẹp đầy nữ tính- “ áng tóc trữ tình”
-   Sông Đà đẹp ở không gian và thời gian khác nhau
-   TY tha thiết với sông Đà

12/ Tìm hiểu hình tượng ông lái đò trong cuộc chiến đấu với con SĐ hung bạo:

-   Trong cảm xúc thẩm mĩ của NT con người lao động đẹp và quý hơn tất cả. Đó là khối “ vàng mười”. Con người lao động vô danh trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên đã trở nên lớn lao, kì vĩ
-   Người anh hung lao động trên sông nước:
 + Cuộc đấu tranh không cân sức ( SĐ hung bạo- con người nhỏ bé)
 + Con người đã chiến thắng sức mạnh của tự nhiên. Dòng song càng hung bạo thì hình tượng ông lái đò càng đẹp đẽ, uy nghi.
+ Nguyên nhân làm nên chiến thắng: kinh nghiệm đò giang song nước, nắm được quy luật của dòng song, sự ngoan cường, ý chí quyết tâm…
Đoạn văn miêu tả đầy không khí trận mạc, sức tưởng tượng và kho từ vựng phong phú thể hiện rõ PCNT của NT
-   Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ
 + Nghệ sĩ vượt thác qua ghềnh
 + Tâm hồn đẹp : vô danh, thầm lặng, bình dị.

13/ Nét độc đáo, đa sắc thái của sông Hương trong “ Âi đã đặt tên cho dòng sông”

-   Vẻ đẹp của song Hương từ thượng nguồn đến đoạn chảy qua kinh thành Huế
  + Ở thượng nguồn sông Hương có vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại ” như một cô gái Di-gan
 + Khi chảy qua dãy Trường Sơn, SH như “ một bản trường ca rừng già rầm rộ….”
 + Ra khỏi rừng sông Hương trở nên “ dịu dàng và trí tuệ”…
 + Khi uốn lượn qua những rừng thông nơi đặt lăng mộ vua nhà Nguyễn, nó lại có vẻ đẹp “ trầm mặc”, “ như triết lí, như cổ thi…”
-   Vẻ đẹp của song Hương trong cảm hứng của các nghệ sĩ: Nguyễn Du, CBQ, TĐ, TH… vẻ đẹp SH gắn với cách cảm nhận, cách nhìn nhận riêng của từng nhà thơ.
-   SH gắn với xứ Huế với lịch sử dựng nước và dựng nước; gắn với cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Nam của nước đại Việt xưa.

14/ Nét riêng trong văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường:

-   TY say đắm với dòng song, sự gắn bó máu thịt với cảnh và con người xứ Huế
-   Cây bút giàu chất trí tuệ, hiểu biết sâu rộng về lịch sử, văn hoá và nghệ thuật xứ Huế
-   Trí tưởng tượng lãng mạn bay bổng
-   Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa

 NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

-   Vận dụng các thao tác giải thích, chứng minh, bình luận
-   Diễn đạt rõ ràng, chuẩn xác, nêu rõ luận điểm

I- Nghị luận về một tư tưởng đạo lí

 1. Đề tài:
   - Về nhận thức ( lí tưởng, mục đích học tập….)
   - Về tâm hồn, tính cách ( lòng yêu nước, lòng nhân ái, lòng vị tha, tính trung thực….)
   - Về quan hệ gia đình ( tình mẹ con, tình anh em….)
   - Về quan hệ xã hội ( tình đồng loại, tình thầy trò, tình bạn bè…)
2. Về cấu trúc triển khai tổng quát:
- Giải thích tư tưởng đạo lí cần bình luận  ( với đề cần bàn luận là vấn đề gì?)
- Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề cần bình luận.
- nêu ý nghĩa của vấn đề (bài học nhận thức, hành động…)

II- Nghị luận về một hiện tượng đời sống:

1.Đề tài: Những hiện tượng tốt hoặc chưa tốt cần được nhìn nhận thêm ( chấp hành luật giao thông, hiến máu nhân đạo, hút thuốc lá nơi công cộng, phong trào mùa hè xanh…..)
2.Về cấu trúc triển khai tổng quát: xem hướng dẫn sgk

Bài đăng Phổ biến