Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thi
ca hiện đại. “Ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tởng cộng
sản”. Tập thơ “Việt Bắc”, là đỉnh cao của thơ Tố Hữu đồng thời cũng là
thành tựu hàng đầu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trong đó bài thơ
“Việt Bắc” đợc coi là kết tinh sở trờng nghệ thuật của ngòi bút Tố Hữu.
Đó là khúc hát ân tình của ngời kháng chiến đối với quê hương, đất nước
với nhân dân cách mạng được thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa
hiện đại mà cốt lõi là truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân
tộc.
Được coi là người sinh ra để thơ hoá những vấn đề chính trị,
thơ Tố Hữu luôn bám sát các sự kiện cách mạng. Men theo năm tháng những
bài thơ của Tố Hữu, ta có thể tái hiện lại những chặng đường hào hùng
của cách mạng Việt Nam. Thơ ông quả là “cuốn biên niên sử bằng thơ” như
có nhà nghiên cứu đã đánh giá. “Việt Bắc” không phải là ngoại lệ.
Tháng
7/1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoà bình được lập
lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, một trang sử mới mở ra cho
đất nước. Tháng 10/1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước chuyển
từ căn cứ địa về thủ đô. Trong thời điểm lịch sử ấy, bài thơ “Việt Bắc”
đã ra đời. “Việt Bắc” không còn là tình cảm riêng của Tố Hữu mà còn tiêu
biểu cho tình cảm của người kháng chiến miền xuôi đối với chiến khu
cách mạng, với đất nước, với nhân dân. Một sự kiện chính trị đã chuyển
hoá thành thơ ca theo cách “Tâm tình hoá, là một đặc trng của lối thơ
trữ tình chính trị Tố Hữu. 20 câu thơ đầu tiên của “Việt Bắc” thể hiện
rất rõ đặc trưng nghệ thuật này.
Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ ngọt ngào:
Mình về mình có nhớ ta
Mời năm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Câu
thơ mở ra cảnh giã biệt, một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ cảm xúc trữ
tình dạt dào. Cảnh giã biệt vẫn quen thuộc trong thơ ca dân gian và cổ
điển truyền thống đã được Tố Hữu khéo vận dụng để diễn tả tâm trạng mang
tính thời đại. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng, Chính phủ với Việt
Bắc được thu vào cuộc chia tay của một đôi trai gái: người ở lại rừng
núi chiến khu là cô gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng.
Chuyện chung đã hoá thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân nước
trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi, cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu
luyến giữa những người đã từng gắn bó sâu nặng dài lâu:
“Mười lăm
năm” “thiết tha mặn nồng” được Tố Hữu thể hiện bằng một thể thơ giàu
tính dân tộc. Thể lục bát, cách kết cấu đối đáp, sử dụng đại từ nhân
xưng “Mình”, “Ta” quen thuộc trong thơ ca dân gian, có khả năng “biểu
hiện một cách thuận tiện, phù hợp với điệu hồn chung của cộng đồng người
Việt” “Rung lên cái sợi tơ lòng chung của những tấm lòng Việt”. Tất cả
những yếu tố đó đã diễn tả thật xúc động tình cảm quyến luyến thiết tha
trong một cuộc chia tay đặc biệt: chưa xa đã nhớ, để chia mà không xa,
cách mà
không biệt.
Mình về mình có nhớ ta” đã là chuyện chung thuỷ, riêng tư. Nhưng đến:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
thì
không còn là chuyện của tình yêu lứa đôi mà đã là chuyện ân nghĩa thủy
chung của đạo lý dân tộc. Câu thơ lục bát điệp hai lần từ “mình” nghe
như lối tâm tình thương mến mà day dứt. Băn khoăn lớn nhất của ta và
mình trong cuộc chia tay là ân tình thủy chung. Cái độc đáo ở chỗ: một
câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không gian. Chỉ một khổ thơ đã gói
gọn một thời cách mạng, một trời cách mạng. Tác giả đã chọn tình yêu một
đôi trai gái làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc với “Mười
lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” Từ thuở cách mạng còn trứng nước đến khi
trưởng thành vững vàng đó là điểm nhìn nghệ thuật rất Tố Hữu- người thi
sĩ luôn khơi nguồn cảm hứng từ những sự kiện lớn của cách mạng.
Tiếp theo câu hỏi của ngời ở là tiếng lòng của người đi:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Người
đi đã nghe câu hỏi, lòng tràn đầy bâng khuâng “bồn chồn” một tình cảm
thương nhớ “thiết tha”. Tâm trạng lúc chia tay được diễn tả thật đắt qua
sự luyến láy của ngôn từ và cả ở nhạc điệu của câu thơ: Hai câu đầu là
nhịp 2/2 hối hoàn của lục bát đến đây đã vặn mình chuyển điệu 3/3:
“Áo chàm đưa/ buổi phân ly
Cầm tay nhau/ biết nói gì / hôm nay"
Cái
xao xuyến bồi hồi của lòng người đã cồn cào nổi sóng trên câu thơ thể
hiện cách thần tình chút ngập ngừng chứa chan tình thương mến, tạo ra
một khoảng lặng đầy biểu cảm để chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn
dập, tha thiết hơn.
Mười hai câu lục bát còn lại là lời của người
ở, cấu tạo bằng sáu câu hỏi như khơi sâu vào kỷ niệm. Mỗi câu hỏi đều
gợi lại những gì tiêu biểu nhất của Việt Bắc qua những hình ảnh chọn lọc
gợi cảm: Mưa nguồn, suối lũ, mây mù, Những hình ảnh chọn lọc vừa chân
thực vừa thơ mộng; “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” Những câu thơ có
khả năng diễn biến những khái niệm trừu tợng thành hình ảnh đầy cảm giác
sống động cụ thể “mối thù nặng vai”. Nghệ thuật nhân hoá cũng tạo nên
sự sống động cho hình ảnh thơ:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Tình
cảm của ngời ở đối với ngời đi xem ra đợc thể hiện sâu kín hơn cả trong
câu thơ này, chỉ 14 chữ mà chứa đựng biết bao quyến luyến nhớ thương:
Người đi rồi cả một miền rừng trở nên hoang vắng, trám không người nhặt,
măng không ai hái, cả núi rừng cũng mong nhớ đến thẫn thờ. Như một
thông lệ trong cuộc chia tay giữa những người thân thiết, người ta
thường đẩy thời gian về quá khứ để chưa xa đã nhớ, chưa biệt đã thương.
Để trên nền xúc cảm này, dòng hồi tởng những kỉ niệm thân thương ùa về
mãnh liệt.
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Nhìn
thoáng qua, tổ chức các câu thơ đều lặp lại ở phép láy đầu 6 câu: Mình
đi, mình về. “Đi”, “Về” vốn ngợc chiều trái hướng, song ở đây lại đồng
nhất một phương .
Phải chăng niềm tin giản dị mà rất thực của cả
người đi và người ở đã thổi vào câu chữ, làm nên chút choáng ngợp bối
rối của ngôn từ, thể hiện mạch ngầm văn bản trong chiều sâu thơ ca: Ra
đi để hẹn về. Việt Bắc đã trở thành quê hương thứ hai của ngời cán bộ
kháng chiến.
Những kỷ niệm được gợi nhớ đều là những kỷ niệm của
cuộc sống chung, tình cán bộ với nhân dân chia ngọt sẻ bùi, chung gian
lao, chung mối thù Nếu không khéo rất dễ sa vào cái gọi là “liệt kê kỉ
niệm” câu thơ sẽ trôi tuột đi, không thể lưu đọng lại trong lòng người
đọc. Cái làm nên chất thơ của bài “Việt Bắc” cũng như của đoạn thơ này
chính là nhạc điệu. Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân
nga, trầm bổng réo rắt, thấm sâu vào tâm tư. Những yếu tố làm nên chất
nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục bát rất chuẩn về thanh luật mà
còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với tần số cao trong các câu
thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lòng sâu kín bồi
hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về cấu trúc, vẻ đẹp
nhịp nhàng của ngôn từ.
Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù
Miếng cơm / mối thù
Trám / măng
Hắt / son
Nhớ / mình
Tân / đa
Những
hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến luyến,
trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối xứng tiểu đối,
nó mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể
tách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc:
“Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa”
Đại
từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay được
Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái
ngầm ý hai ta là một đã rõ. Nhng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại
chữ mình: “Mình đi, mình có” là chỉ ngời về, “nhớ mình” là chỉ người ở.
Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình”
đó. Cũng như ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ
trả lời khẳng định sắt son.
“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
Nhà
thơ đã khai thác rất đắt chữ “Mình” trong tiếng Việt. “Mình” vừa là bản
thân vừa là ta, “Mình” cũng là ngời thân thiết có thể xem như chính
mình vậy. Đại từ nhân xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá
khiến “Việt Bắc” cất lên như tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của
kẻ ở người đi.
Sự đổi chỗ trong tổ chức câu thơ: “Mái đình Hồng
Thái, cây đa Tân Trào” được viết thành: “Tân trào Hồng Thái mái đình cây
đa” chứng tỏ tên riêng và danh từ chung đều đã đồng nhất hoàn toàn về ý
nghĩa -Việt Bắc quê hương cách mạng. Nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc “Tân
Trào, Hồng Thái”, đã chuyển hoá thành nỗi nhớ quê hương “Mái đình cây
đa” những hình ảnh đã đi vào tâm thức người Việt từ ngàn đời. “Trong thơ
Tố Hữu, cái riêng, cái chung như không còn ranh giới, cái cũ cái mới
lồng vào nhau, (Nguyễn Văn Hạnh) mà đây là một trờng hợp điển hình.
“Việt
Bắc” là bài ca tâm tình, ngọt ngào đằm thắm rất tiêu biểu cho hồn thơ,
cho phong cách thơ của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm tình yêu
nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng đối với
nhân dân.
Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người
Pháp Tố Hữu tâm sự rằng: “mình phải lòng đất nước và nhân dân của mình.
Và đã nói về đất nước về nhân dân như nói về người mình yêu”. Cho nên
tình yêu biến thành tình nghĩa “Việt Bắc” đã trở thành tiếng hát ân tình
chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm
lịch sử đáng ghi nhớ.
Có thể khẳng định rằng đoạn thơ trên là những câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc”.
dù bạn là ai, dù bạn có cố tình hay vô ý, dù sao bạn cũng đã ghé qua blog này, mong sao bạn cảm thấy thích thú. Nếu có chỗ nào bạn chưa vừa ý, mong bạn có thể nhiệt tình đóng góp ý kiến để trang blog ngày càng hoàn thiện hơn.
Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Bài đăng Phổ biến
-
Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến c...
-
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI I. Hiểu được nội dung cơ bản lời khuyên của Bác. Bằng hình ảnh tượng trưng, với lối nói cường điệu, qua 4 câu thơ...
-
***** gợi ý: - Giới thiệu được vấn đề nghị luận: suy nghĩ về “kẻ mạnh” trong mối quan hệ giữa người và người. - Giải thích: Kẻ mạnh khôn...
-
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là nhữn...
-
Trong phần kết truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu viết: " Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ản...
-
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Giải thích : - Thế nào là “ Học để biết” - Thế nào là “ Học để làm” - Thế nào là “ Học để chung sống” - “...
-
Đặt vấn đề: - Trung thực là một đức tính cần phải có, quan trọng đối với tất cả mọi người - Đối với học sinh thì đó là một đức tính càng q...
-
Thanh Thảo sinh năm 1946, quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học Tổng Hợp Hà Nội, ông vào công tác ở ...
-
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI I/Hiểu được nội dung cơ bản của câu nói của Bê-Cơn Trên trái đất này,con người là động vật có sức mạnh siêu vi...
-
Mở đầu tác phẩm Vợ nhặt là bức tranh ngày đói. Chỉ vài nét vẽ phác thảo, nhà văn đã vẽ nên bức tranh ngày đói thật hãi hùng. Xóm ngụ cư chìm...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét