Trang

Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

TRÀNG GIANG

TRÀNG GIANG
- Huy Cận -



Huy Cận, một trong những tác giả xuất sắc của phong trào thơ mới. Ông ngậm ngùi dứng nhìn đời như một triết nhân và ngòi bút thi sĩ cứ lần lượt khơi dậy bao lớp buồn đọng lại mấy ngàn năm dưới đáy hồn nhân thế. “Tràng giang” là một cung bậc buồn trong bản đàn buồn “Lửa thiêng” của Huy Cận.

Tràng giang là một không gian mênh mông vô biên. Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ dẫn vào vô biên rồi. Xuân Diệu đã rất tinh tế khi so sánh chữ “trường” và “tràng” để thấy : “trường” chỉ có nghĩa là dài , còn “tràng” do “ang” là một âm mở rộng nên được cả dài lẫn rộng . Thế nghĩa là lớn , ứng với hình tượng một con sông lớn . Tràng giang gợi ra hình tượng một con sông chảy miên man giữa trời đất . Và với câu thơ đề : “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như thêm một lần nữa vén lên bức rèm , bước qua ngưỡng cửa để đi theo một hành lang mở thông vào vô biên.

Nhưng dầu sao những hình ảnh sống động của thế giới ấy có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với khổ thơ đầu gợi cho người đọc một nỗi buồn đìu hiu, xa vắng:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Một cảnh tượng sông nưóc mênh mang, bát ngát đang trải ra. Trên mặt sông rộng mênh mông ấy chỉ có “con thuyền” nhỏ “xuôi mái” rẽ nước “song song". Cái lẻ loi của con thuyền nhỏ càng làm nỗi bật cái mênh mông hoang vắng của sông rộng, và ngược lại., cái mênh mông của mặt sông càng tô đậm cảm giác lẻ loi, cô đơn của con thuyền đang xuôi dòng. Cái hình ảnh “thuyền về” một ngả, “nước lại” một đường cảm giác chia lìa, cho thấy một mối sầu lan tảo khắp trăm ngả” đất trời. Dòng Tràng giang trở thành dòng thời gian ấy, mọi cái đều buông trôi, thụ động: "Củi một cành khô lạc mấy dòng". Cái buông trôi, thụ động của hình ảnh "Con thuyền xuôi mái nước song song" bị đẩy đến mức tuyệt vọng hơn nữa. Cà khổ thơ có hình ảnh thơ và cả âm diệu thơ đều gợi buồn. Với sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối: buồn điệp điệp, nước song song, thuyền về - nước lại, một cành khô lạc mấy dòng, khổ thơ có một âm điệu điệu nhịp nhàng, trầm buồn. Đó cũng là giọng điệu chung của bài thơ.

Bước sang khổ hai với tầm nhìn rộng hơn, một không gian bao la gợi nên bức tranh vô biên của Tràng Giang:

“Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót;
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Câu trên tả cái có. Câu dưới tả cái không. Cồn nhỏ chỉ lơ thơ, gió chỉ đìu hiu. Có đấy mà không đáng kể gì. Tất cả đều chỉ là không: không tiếng làng xa, không một chuyến đò, không cầu gợi chút niềm thân mật. Những câu thơ như thế, đâu phải để tả những "lơ thơ cồn nhỏ", những "gió đìu hiu", hay "nắng xuống trời lên", mà thực ra chỉ để tả cái vô tận, không cùng và vắng lặng đến thành rợn ngợp của "Sông dài trời rộng, bến cô liêu". "Bến cô liêu" là một đặc điểm trong không giang cũng như có hồn người. Tả và gợi lại quyện vào nhau, cái tâm tình cứ luôn được toát lên từ tạo vật.

Khổ thơ tiếp theo lại thêm một nét chấm phá nữa vào bức tranh khung cảnh:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Không gian trải ba chiều: cao, rộng và dài. Tất cả đều chỉ là quạnh vắng với cô liêu. Tất cả đều chỉ là nhỏ bé, mơ hồ, mỏng manh trước cái vô tận, không cùng của vũ trụ. Vậy thì sao mà không khỏi thốt lên, than thở cho những số kiếp con người trôi dạt trên con sông thời gian. "Bèo dạt về đâu" ở chỉ số kiếp, chỉ thân phận chứ không đơn thuần dòng sông mặt nước. Hai câu thơ: “mênh mông không một chuyến đò ngang”, “ không cần gợi chút niềm thân mật” không phải là sự phủ định, mà là ao ước thiết tha nhưng vô vọng về hình bóng con người. Nếu hiểu đây chỉ là cách nói phủ định để nhằm làm nổi lên cái "dài", "rộng" và "cô liêu" thì ý nghĩa tâm tình mất đi nhiều, còn lại chỉ đơn thuần là thủ pháp, là kỹ thuật mà thôi.

Đến khổ thơ cuối bài, ta cảm nhận được điều gì đó ở Huy Cân: nỗi cô đơn càng thấm thía lúc hoàng hôn.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Mây đùn như núi, lớp lớp phía chân trời. Sự liên tưởng thật là độc đáo. Nhìn một cánh chim lẻ loi chao liệng mà thi sĩ tưởng như nó đang chịu sự đè nặng của cả vũ trụ, trời đất. Vũ trụ trời đất ấy lớn lao, không cùng không tận, dồn sức nặng vào bóng chiều làm chim phải nghiêng cánh, lệch cánh. Sự sống thật mỏng manh yếu ớt. "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" như tự nỗi niềm cất lên thành câu chữ. Cái tứ của bài thơ đến câu thơ cuối mới lộ ra. Cả bài thơ như thế là nỗi lòng bâng khuâng, cô tịch của một lữ khách "thiếu quê hương" đứng trước con sông thời gian, cái tôi bé nhỏ đòi khẳng định mà đành bất lực. Hai câu đầu là tạo vật, hai câu sau lại là tâm tình. Cảm hứng của cả một thời thơ mới trở thành độc đáo, mang cái "sầu thiên cổ" rất riêng của Huy Cận.

Tràng giang của Huy Cận không chỉ là một bức phong cảnh mà còn là “một bài thơ về tâm hồn”. Tạo vật với tâm tình là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" mang âm điệu thơ cổ điển. Và chính là tạo vật - tâm tình ấy cũng là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" trở thành Thơ mới ảo não vào bậc nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời. Qua Bài thơ, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, tình yêu nước thầm kín mà tha thiết.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng Phổ biến