Trang

Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 7 tháng 12, 2011

ĐẤT NƯỚC - Nguyễn Khoa Điềm –


I.9 câu thơ đầu :Cội nguồn của đất nước

"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó"

1.Đoạn thơ được mở đầu bằng lời tâm sự về cội nguồn sinh thành của đất nước

"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể “

Nhà thơ không nêu lên một điểm mốc thời gian cụ thể nào để nói về nguồn gốc của đất nước nhưng qua đó tác gải lại thể hiện được cảm xúc ngỡ ngàng đầu tiên của mỗi người khi tiếp nhận hai tiếng thiêng liêng ấy. Bằng cách nói tưởng chừng như trừu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp ta cảm nhận được dòng thời gian đằng đẵng để thấy đất nước được hình thành từ quá khứ xa xôi. Đất nước còn hiện diện trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể


2.Đất nước còn nhập vào cuộc sống hiện tại và gắn liền với những gì gần gũi, thân thương nhất "Đất nước bất đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn"

Tác giả đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh giàu sức gợi để tái hiện quá trình hình thành của đất nước. Miếng trầu bà ăn thật bình dị, thân quen nhưng cũng là biểu tượng cho triết lý nhân sinh sâu sắc của người VIệt, miếng trầu là biểu tượng cho tình nghĩa thủy chung của vợ chồng, của anh em. Hình ảnh miếng trầu gợi ta nhớ đến sự tích trầu cau chứa đựng những ý nghĩa sâu xa

"Tách riêng thì đắng thì cay
Hòa chung thì ngọt thì say lòng người
Tách riêng xanh lá bạc vôi
Hòa chung thắm đỏ máu người lạ chưa
Chuyện tình ngày xửa ngày xưa…"

Đồng thời miếng trầu còn là biểu hiện cho vẻ đẹp của thuần phong mĩ tục, cho bản sắc riêng của một dân tộc trọng tình nghĩa hơn của cải vật chất "Miếng trầu là đầu câu chuyện"

3.Bên cạnh đó hình ảnh cây tre cũng gợi những truyền thuyết xa xưa:" Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". đọc câu thơ ta lại nhớ đến cậu bé làng Gióng vươn vai lớn lên thành tráng sĩ

"Nhổ bụi tre ngà đuổi giặc Ân"
(Tố Hữu)

Truyền thuyết xa xưa ấy thể hiện trọn vẹn tinh thần bất khuất, khát vọng tự do của một dân tộc và sự trưởng thành của một dân tộc biết cầm vũ khí để đấu tranh giành độc lập tự do

4.Đất nước còn hiện diện trong những sự vật bình thường thân thuộc trong cuộc sống quanh ta
"Tóc mẹ bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn"

Đất nước đã có trong câu chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, có trong tình nghĩa đằm thắm của mẹ của cha, thậm chí chỉ một búi tóc sau đầu của mẹ cũng ẩn chứa linh hồn dân tộc bởi lẽ đây là quan niệm thẩm mĩ mang bản sắc dân tộc. Đất nước còn hiện diện trong nghĩa tình tưởng chừng gảin đơn, thủy chung, son sắt của cha với mẹ "gừng cay muối mặn" gợi liên tưởng đến câu ca dao chứa đựng niềm hạnh phúc ngọt ngào đầm ấm, bất chấp những gian khổ nhọc nhằn như

"Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau"

5.Không chỉ khám phá cội nguồn của đất nước , Nguyễn Khoa Điềm còn khiến người đọc cảm nhận về công lao vĩ đại của nhân dân trên hành trình dựng nước và giữ nước

"Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"

Đất nước được dựng nên từ trí tuệ, tâm huyết và đôi bàn tay cần cù, khóe léo của nhân dân. Bằng đôi bàn tay cần mẫn tài hoa họ đã dựng lên những ngôi nhà che mưa che nắng, dựng lên tổ ấm cho mình, đó cũng là khởi đầu cho không gian sống đầu tiên của đất nước. Cách nói này còn gợi cho người ta sự hình thành và phát triển ngôn ngữ khi con người biết đặt tên cho những sự vật xung quanh.

Đặc biệt hình ảnh hạt gạo " một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng" đã gợi lên cả một quá trình lao động bền bỉ và đầy sáng tạo của nhân dân. Thành ngữ "một nắng hai sương" diến tả những nhọc nhằn gian khổ của một dân tộc sinh sống bằng nghề trồng lúa nước. Những động từ "xay, giã, giần, sàng" gợi lại những vất vả gian nan và ca ngợi cả nét tài hoa tinh tế của người lao động Việt Nam. Chẳng biết qua bao thế hệ và trí tuệ của bao người mới có thể biến hạt gạo thành hạt thóc trắng ngần nuôi dưỡng chúng ta. Chỉ cần nhìn lại những vật dụng và quá trình làm ra hạt gạo, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp bình dị mà vĩ đại của nhân dân. Có thể nói rằng mỗi dòng thơ đều gợi lên những công lao to lớn của nhân dân, bằng chính cuộc sống của mình, họ đã góp phần tạo lập và gìn giữ đất nước cho những thế hệ sau .

6. Đoạn thơ kết thúc bằng lời khẳng định "Đất nước có từ ngày đó". Cách nói tưởng như vô hình nhưng lại mở ra cả một trường liên tưởng. "ngày đó" là thời gian bao quát, là ngày mở đầu để hình thành nên đất nước. Không ai biết "ngày đó" bắt đầu từ bao giờ, chỉ biết rằng có từ rất xa xưa. Song có một điều rất rõ, trên hành trình của mấy ngàn năm lịch sử ấy, đất nước đã được tạo lập giữ gìn nhờ chính những những người bình thường. họ không để lại tên tuổi, nhưng bằng chính cuộc sống thầm lặng và sức lao động của mình họ đã dựng lên quê hương xứ sở


II.20 câu tiếp theo :Định nghĩa đất nước

"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm

Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ"

1.4 câu đầu
Không chỉ tìm về cội nguồn hình thành của đất nước, nhà thơ còn muốn nêu lên định nhĩa về hai tiếng thiêng liêng ấy

"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hẹn hò
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"

Hai tiếng "đất nước" khi thì được tách riêng, khi thfi được hợp lại nhưng đều gắn liền với không gian riêng tư gần gũi của mõi người. Đất nước không phải là một biên giới xa xôi trừu tượng, không phải là một cái gì đó vô hình, trái lại, đất nước hiện hữu ngay bên cạnh chúng ta, tồn tại nagy trong trái tim mỗi người. Đất nước là con đường nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm táp nô đùa, cũng lòa nơi nảy sinh tình cảm ngọt ngào trong trắng của tuổi thanh xuân

Đất nước còn hiện hữu trong mảnh đất dưới chân người thiếu nữ khi cô đánh rơi chiếc khăn tay trong nỗi nhớ nhung da diết. Nguyễn Khoa Điềm đã rất khéo léo khi sử dụng chất liệu văn hóa dân gian

"Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất"

Từ cách sử dụng đó tác giả đã thể hiện tình yêu thương gắn bó với quê hương xứ sở
Có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã bộc lộ một cách nhin sâu sắc mới mẻ về đất nước bởi lẽ tình cảm thiêng liêng lớn lao ấy nhất thiết phải được hình thành từ những gì gần gũi thân thương nhất trong tâm hồn mỗi người, một nhà gáio dục nổi tiếng người Nga đã nói "Muốn dạy cho một đứa trẻ tình yêu đất nước thì trước hết hãy dạy cho nó biết yêu các bậu cửa nhà mình"

2. Đất nước không chỉ gắn với những kỉ niệm riêng của mỗi người mà đất nước còn là tài sản vô giá của cả dân tộc

"Đất là nơi "con chim phượng hòang bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ"

Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng nhiều chất liệu của thần thoại, truyền thuyết để tái hiện sự hình thành không gian đất nước. Để có được không gian ấy phải trải qua thời gian đằng đẵng với bao nhiêu công sức thế hệ con người, họ đã tạo nên nơi sinh tụ cộng đồng dân tộc. như vậy đất nước vừa là cái gì đó nhỏ bé riêng tư của mỗi người lại vừa lớn lao của dân tộc.

3.4 câu tiếp theo

Nhà thơ đã sử dụng một cách sáng tạo truyền thuyền "con rồng cháu tiên " để gợi lại nguồn gốc cao quý của dân tộc

"Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"

Câu thơ gợi lại niềm tự hào kiêu hãnh về nguồn gốc "con rồng cháu tiên" đó cũng là cưo sở để hình thành nên tình đồng bào thiêng liêng bền vững

4.7 câu cuối

Từ nguồn gốc cao quý của dân tộc, tác giả đã gợi lại công sức của bao thế hệ con người

"Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ"

Điệp khúc "những ai" trở đi trở lại trên các dòng thơ đã làm sống dậy hình ảnh của mấy ngàn lớp người không tiếc mồ hôi xương máu để tạo dựng và gìn giữ nước non này. Hệ thống từ ngữ chỉ thời gian "đã khuất", "bây giờ", "mai sau" được nhà thơ sử dụng để nối liền quá khứ, hiện tại, tương lai. Đóa là tình yêu và trách nhiêm của mỗi người đối với quê hương đất nước. Họ đã đón nhận và gìn giữ những gì của thế hệ đi trước để lại, và họ đã sáng tạo và hoàn thiện để lại cho thế hệ mai sau. Trong đó điều hệ trọng thiêng liêng nhất chính là tình cảm cội nguồn

"Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ"

Hai dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã mượn ý tứ của câu ca dao xưa

"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười"

Chỉ một câu ca dao cũng đủ nói lên sự gắn bó máu thịt của người Việt với quê hương đất nước . dù có bộn bề công việc, dù có ngược xuôi nơi nào, họ cũng luôn hướng vè cội nguồn, miền đất tổ linh thiêng đã trở thành biểu tượng, thành linh hồn của đất nước


III.13 câu tiếp theo : tình yêu trách nhiệm đối với quê hương đất nước

"Trong anh và trong em hôm nay
Đều có một phần đất nước

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời"

1.4 câu đầu

Từ cảm nhận về cội nguồn đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn dắt người đọc đến một đinh nghĩa khái quát và sâu sắc : đất nước là sự hào quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng

"Trong anh và trong em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm"

Tác giả đã khẳng đinh mối quan hệ hai chiều giữa con người và đất nước. Đất cn hiện diện ngay trong cuộc sống của mỗi người , gắn liền với những tình cảm riêng tư nhất. Ngược lại mỗi con người cũng bằng chính cuộc sống của mình đã góp phần tạo dựng và giữ gìn quê hương đất nước . Cho nên khi hai đứa "cầm tay" thì đất nước đã hòa quyện cùng tình yêu lứa đôi hài hó nồng thắm.

2. 2 câu tiếp

.Đất nước còn hiện diện trong khoảnh khắc
"Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn to lớn"

Đó là cảm giác ấm áp khi mỗi cá nhân được hào quyện vào cuộc đời chung. Khi đó đất nước vẹn tròn to lớn với tình đồng bào, tình dân tộc bền chắc thiêng liêng.

3 .3 câu tiếp.

Chính vì vậy đất nước là tài sản vô giá mà mỗi con người phải có trách nhiêmh truyền lại cho các thế hệ mai sau

"Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng"

Câu thơ chứa đựng niềm tin vào một tương lai tươi sáng đẹp đẽ. Hình ảnh "con ta" không chỉ gắn liền với hạnh phúc lứa đôi mà còn là biểu tượng cho ngày mai của quê hương xứ sở, nagy trong hiện tại đất nước còn chìm ngập trong máu lửa đau thương nhưng tác giả vẫn hướng về một ngày mai tươi sáng.

4. Từ những suy nghĩ ấy, nhà thơ đã nhắc nhở với mọi người gìn giữ và bảo vệ tổ quốc, làm bổn phận thiêng liêng của mỗi con người

"Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời"

Tác giả đã mượn lời tâm sự của một người yêu nói với người yêu để khẳng định trách nhiệm của mỗi người với quê hương đất nước. Đất nước là máu thịt, là cuộc đời, là tổ ấm của chính mình nên sự hiến dâng kia là tất yếu. cũng với lời tâm tình tha thiết nhà thơ đã mở đầu những dòng thơ bằng lời kêu gọi thức tỉnh lơng tri của những người Việt Nam chân chính.


IV.12 câu tiếp theo :cảm nhận Đất nước ở phương diện không gian địa lý, tư tưởng đất nước của nhân dân

"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…"

Từ xưa đến nay, đất nước đã soi bóng vào biết bao nhêu sáng tác của các nhà văn nhà thơ: Xuân diệu đã viết về đất nước như một con tàu xé sóng ra khơi

"Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền xé sóng mũi Cà Mau"

Nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng viết về đất nước đầy tự hào

"Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi vào
Như ngàn núi trăm sông diễm lệ"

Nhưng có lẽ chưa có ai có cái nhìn bao quát và sâu rộng về đất nước như Nguyễn Khoa Điềm

1.4 câu đầu

Từ xưa đến nay, không gian địa lý vẫn được coi là yếu tố vật chất, cho nên nói đến phương diện này người ta thường nghĩ đến bàn tay cảy tạo hóa, còn ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến một cái nhìn độc đáo mới mẻ

"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thành Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng lên đất tổ hùng vương"

Tác giả đã liệt kê những đại danh thắng cảnh nổi tiếng của đất nước nhưng không phải để ngợi ca thiên nhiên hào phóng mà hướng tới khẳng định công lao vĩ đại của nhân dân. Điệp từ "góp cho" biến mỗi câu thơ thành một lời khẳng định về những vai trò to lớn của con người nhỏ bé bình dị. chính họ bằng tình yêu và nỗi đau, nghị lực và sức sáng tạo của mình đã alfm nên linh hồn cho núi sông bờ cõi.

Đó là bao nhiêu thế hệ phụ nữ từng nhớ thương chờ đợi, từng chung thủy tha thiết đã góp cho đất nước những núi Vọng Phu. Bởi lẽ nếu không có tình yêu của họ thì núi mãi mãi chỉ là núi đá, vô tri vô giác chứ đâu phải là nhgf hòn Vọng Phu vòi vọi ngắm trông. Cũng như phải có nghĩa tình đằm thắm của những cặp vợ chồng yêu nhau thì mới có những đôi trống mái điểm tô cho không gian đất nước. Chính ánh mắt của những con người tràn đầy niềm tin vào hạnh phúc, vào sức mạnh của yêu thương đã phát hiện và góp cho đất nước những biểu tượng ngọt ngào kia.

Không chỉ thế trí tưởng tượng phong phú và tinh thần tự hào dân tộc còn sáng tạo nên những truyền thuyết cho từng mảnh đất trở nên thiêng liêng vô giá. Những ao hồ không còn là sản phẩm của tự nhiên mà đã in dấu vết chân ngựa của người anh hùng làng Gióng. Đó là chứng tích của những truyền thống bất khuất, khát vọng tự do.

Có thể nói rằng chính những con người bình dị "vô danh như cát", "Sống trong cát, chết vùi trong cát-Những trái tim như ngọc sáng ngời" (Tố Hữu) đã góp cho đất nước không phải những chiến công hiển hách mà bằng chính cuộc sống tâm hồn phong phú, bằng sự hi sinh thầm lặng của mình. Chính nhân dân qua bao thế hệ đã bằng xương máu của mình mà đặt tên cho hình sông thế núi, tạo nên một đất nước đằm thắm nghĩa tình thủy chung. Đất nước có khi hiện hình trong đau buồn với những núi Vọng Phu, đất nước đằm thắm nghĩa tình ở hòn Trống Mái , đất nước trỗi dậy thành những nét kì vĩ nơi gót ngựa thành gióng đi qua để lại…Từ điểm nhìn từ thiên nhiên kì thú, Nguyễn Khoa Điềm đã dạy cho ta cách "cảm" để yêu thêm vẻ đẹp của đất nước muôn đời .

2.4 câu tiếp

Công lao vĩ đại của người dân còn được phản chiếu qua mọi chiều không gian địa lý này

"Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"

Không gian được mở rộng tới vô cùng vô tận và ở nơi nào nhà thơ cũng chỉ cho ta thấy bằng chứng về sức sáng tạo của nhân dân. Qua cái nhìn của họ, những dòng sông hóa thành nguồn sống bồi đắp nên bờ bãi ruộng đồng phì nhiêu. Đến những người học trò nghèo cũng góp cho quê hương những núi Bút non Nghiên bằng ước mơ khát vọng của mình.

Đặc biệt Nguyễn Khoa Điềm liệt kê hàng loạt những đại danh mang sắc thái riêng của miền Nam để lần nữa khẳng định vai tò to lớn của nhân dân tên hành trình dựng nước giữ nước : Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Phải chăng đso là những người đầu tiên có công khai phá để đất đai hoang vu thành đồng ruộng xóm thôn. Có thể họ đã xa khuất từ bao giờ nhưng tên tuổi của họ đã làm nên linh hồn cho những miền quê ấy.

Những tầng tầng lớp lớp đại danh được bày biện trên trang giấy, chỉ thế thôi cũng đã tái hiện được một Việt Nam đẹp đẽ, dải đất "hình tia chớp" mà đi đâu ta cũng thấy biết bao nhiêu danh lam thắng cảnh. Bằng bút pháp liệt kê Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn dắt người đọc đi khắp chiều dài đất nước từ Bắc xuống Nam, từ rừng xuống biển. Mọi nơi trên đất nước , từ tên đất, tên sông, tên núi, tên gò bãi…đều có sự góp phần của những người "không ai nhớ mặt đặt tên" những chính họ đã "gắn bó và san sẻ", đã "hóa thân cho dáng hình xứ sở", để tên người đã hóa thành tên của đất

3. 4 câu cuối

Từ hệ thống dẫn chứng đầy sức thuyết phục ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát một chân lý

"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…"

Đoạn thơ có sự hòa quyện giữa chất tữ tình đằm thắm tha thiết và chất chính luận sắc sảo. nó không chỉ mang đến một cách nhìn độc đáo về núi sông rừng biển mà còn đánh thức trong tâm hồn mỗi con người tình yêu quê hương xứ sở, lòng biết ơn đối với ông cha bởi lẽ nơi nào cũng in đậm dấu ấn của mấy nghìn thế hệ đi trước . mỗi dòng sông con suối, mỗi dáng núi hay bờ bãi ruộng đồng đều có phần máu thịt của người xưa. Họ đã khai phá đất đai bằng đôi abfn aty cần mẫn. Họ đã mang tất cả tình yêu dồn cho đất đai sông núi để truyền lại cho các thế hệ sau không gian địa lý phong phú, đẹp đẽ này. Chính vì vậy mỗi tấc đất là thiêng liêng vô giá.

Chính nhân dân đã tạo đựng nên đất nước này, đã đặt tên đã ghi dấu ấn của cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, con sông, tấc đất. nhưng không phải cũng có thể lắng nghe và cảm hiểu được linh hồn của đất đá vô tri, không phải bất cứ ai cũng nhìn thất những bóng dáng cuộc đời của nhân dân trong hình sông thế núi. Vì thế vẻ đẹp của đoạn thơ được làm nên từ vẻ đẹp của một tâm hồn lịch lãm , sâu sắc của một thi sĩ nhìn đất nước bằng sự tải nghiệm, tấm tình sâu nặng đối với nhân dân vô danh.


V.26 câu tiếp theo :Đất nước ở phương diện lịch sử

"Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để đất nước này là đất nước nhân dân"

Khi tái hiện lịch sử, nhiều nhà văn nhà thơ khác thường nhắc tới những triều đại vàng son,những vĩ nhân được lưu danh trong sử sách. Trong bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi từng tạ hào khẳng định :"Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập - Cùng hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương". Nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng dặt câu hỏi :"Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?" và cũng tự trả lời

"Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nuyễn Du viết Kiều và đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa bắc
Hưng đạo đại vương diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng"

1.5 câu đầu

Còn ở đây, Nguyễn Khoa Điềm muồn hướng người đọc đến một đối tượng khác

"Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta"

Tác giả muốn hướng người đọc đến những con người không trực tiếp hiện diện thậm chí có vẻ lặng lẽ trên hành trình mấy ngàn năm dựng nước nhưng chính họ đã sáng tạo nên lịch sử của đất nước. Trong mấy ngàn lớp người nối tiếp nhau không dứt ấy, tác giả "Đất nước" đặc biệt đề cao thế hệ trẻ vì chính họ là tương lai của đất nước. Họ gánh phần người đi trước để lại, tiếp nối phát huy truyền thống của cha anh để rồi họ giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau.

2. 4 câu tiếp theo

Bằng cách nói giản dị dân dã, Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá và khẳng định đóng góp to lớn của những con người bình thường lặng lẽ

"Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh"

Với đôi bàn tay cần cú nhẫn nại, họ đã khai phá đất đai, mở mang bờ cõi, tạo nên ruộng đồng bờ bãi xóm thôn. Không chỉ dựng nước họ còn góp xương máu để giữ gìn bảo vệ tổ quốc. Họ tự nguyện đảm đương xứ mệnh thiêng liêng một cách tự nguyện như thể đó là điều tất yếu. những người con trai cầm vũ khí ra trận bảo vệ quê hương xứ sở, những người vợ những người mẹ vượt lên nỗi đau, nỗi cô đươn thương nhớ âu lo để đảm đang, gánh vác trọn vẹn việc nhà

Đặc biệt tác giả đã nhấn mạnh một truyền thống quý báu của người phụ nữ Việt Nam :đó tinh thần bất khuất kiên cường :"Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh". Lời thơ như gợi lại vóc dáng của Bà Trưng Bà Triệu và anh hùng liệt nữ đã làm nên những trang sử hào hùng cho dân tộc.

3.9 câu tiếp

Chính vì vậy khi nhớ về quá khứ, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống dậy hình ảnh của mấy ngàn lớp người vô danh

"Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều người anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con tải
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước "

Nhà thơ không nhắc lại tên tuổi của những vĩ nhân thường được lưu danh trong sử sách bởi lẽ đó là những anh hùng mọi người đều biết, công lao của những vĩ nhân ấy đã được ca ngợi tôn thờ. ở đây Nguyễn Khoa Điềm muốn tô đậm tầm vóc lớn lao phi thường của những con người nhỏ bé, bình thường. Họ chính là nhân dân, là bốn nghìn lớp người chính bằng cuộc sống của mình đã làm nên đất nước

Trong chính những câu thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện nét đẹp đặc trưng của tâm hồn họ :Đó là sự giản dị, hi sinh thầm lặng, nhân dân không ồn ào phô trương, không tô vẽ cho mình. Nhưng chính điều đó khiến nhân dân trở nên to lớn vĩ đại. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia. Họ lặng lẽ tạo dựng và gìn giữ cho ta tài sản vô gái này. Vẻ đẹp thầm lặng bình dị này của nhân dân cũng đã được nhà thơ Nguyễn Duy ca ngợi

"Và vì thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và như thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn những ngôi sao trơ trọi cuối trời"

4. 8 câu cuối

Công lao vĩ đại của nhan dân sẽ được nhà thơ chứng minh bằng hàng loạt dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục

"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúata trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từhòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân
Họ dắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để đất nước này là đất nước nhân dân"

Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các dòng thơđều bắt đầu bằng điệp từ "họ". Bằng cách nói này Nguyễn Khoa Điềm lại một lần nữa khắc sâu ấn tượng về vai trò không thể thiếu của nhân dân. Nhân dân không chỉ làm nên lịch sử mà còn sáng tạo mội giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước

Điệp khúc "truyền cho" gợi liên tưởng đến một cuộc tiếp sức vĩ đại trên hành trình mấy ngàn năm lịch sử đằng đẵng. bằng hệ thồng hình ảnh giàu ý nghĩa ẩn dụ sâu xa,tác giả đã khám phá và ngợi ca công lao vĩ đại của nhân dân. Đó là hình ảnh "hạt gạo" bé nhỏ bình thường nhưng đã kết tinh sức lực, tâm huyết trí tuệ của bao nhiêu thế hệ con người. Ai đã là người tìm ra cây lúa giữa hàng ngàn loài cây hoang dại khác?. Ai là người đã tìm ra cách gieo cấy vun trồng để có được vụ mùa đầu tiên? Và ai đã rìm ra cách xay giã giần sàng biến hạt lúa kia thành hạt gạo trắng ngần. Hành trình ấy đòi hỏi phải có sự tiếp nối của nhiều thế hệ, người đi trước tích lũy kinh nghiệm và truyền lại, người đi sau đón nhận, sáng tạo và hoàn thiện…

Nhân dân giữ gìn và truyền cho ta ngọn lửa. Đó là ngọn lửa được thắp lên cho mỗi ngôi nhà, ngọn lửa mang theo hơi ấm và sự sống cho con người. Song đó cũng là ngọn lửa biểu tựng cho tình cảm cộng đồng ấm áp "tối lửa tắt đèn có nhau" của người Việt

Song có lẽ công lao vĩ đại nhất của nhân dân chính là sự gìn giữ và bảo tồn tiếng mẹ đẻ, linh hồn của dân tộc. Chiến công phi thường ấy được nhà thơ thể hiện bằng hình ảnh rất đôic thân quen, bình dị "Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói. Đó là hình ảnh những người cha người mẹ dạy con mình bập bẹ ngh tiếng nói đầu tiên. Bằng hình ảnh tưởng chừng như chẳng có gì đáng kể ấy, họ đã gìn giữ tiếng mẹ đẻ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phải nhìn về quá khứ mới nhing thấy hết công lao của nhân dân :1000 năm bấc thuộc, 100 năm Pháp thuộc, kẻ thù tìm mọi cách để đồng hóa, để xóa đi bản sắc riêng của dân tộc này. Vậy mà ông cah ta vẫn gìn giữ vẹn nguyên tiếng Việt.

Cội nguồn để tạo nên sức mạnh kì diệu ấy chính là tình yêu thắm thiết sâu nặng dành cho quê hương xứ sở. Khi khai pahs những vùng đất mới, họ không chỉ gánh trên vai những vật dụng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày mà còn mang theo cả tên làng, tên xã, tình quyến luyến với quê hương, thủy chung với cội nguồn và cũng là truyền thống của người Việt

Bằng sức mạnh của tình yêu đất nước, nhân dân đã tạo nên không gian địa lý, khai phá ruộng đồng cho các thế hệ sau "trồng cây hái trái". Câu thơ đã tái hiện lại bao nhiêu thế hệ đã đổ mồ hôi, góp công sức cho những dải đê điều, mương máng bao quanh những xóm làng bừa bãi.
Không chỉ tạo dựng ruộng đồng, núi sông, bờ cõi, gìn giữ những truyền thống đạo đức, nhân dân còn góp phần vào sự nghiệp giữ nước

"Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để đất nước này là đất nước nhân dân"

Tác giả đã khái quát và ngợi ca lịch sử hào hùng của một dân tộc trên suốt hành trình dựng nước và giữ nước. Dân tộc ấy chưa bao giờ chịu cúi đầu khuất phục trước bất kỳ thế lực nào. Nhân dân không chỉ đánh đuổi ngoại xâm để giành lấy tự do mà còn tiêu diệt nội thù để đất nước hòa bình, thống nhất. nhân dân đã tạo lập và truyền lại cho ta đất nước của nhân dân hiền hòa, bình dị mà anh hùng, quật cường như nhà thơ Huy Cận từng ca ngợi

"Sống vững chãi 4000 năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay miệt mài bút hoa
Trong lạ thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa"


VI.9 câu cuối :Cảm nhận đất nước về bề sâu văn hóa

"Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết yêu em từ thưở trong nôi

Người đến hát chèo đò vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"

1.Câu đầu tiên

Tư tưởng đất nước của nhân dâncòn được tác giả khắc họa rõ nét trong đoạn thơ cuối

"Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại"

Dòng thơ đầu tiên được ngắt thành hai vế, mỗi vế là một lời khẳng định về bản sắc riêng của nước Việt. Đó là đất nước của nhân dân, do nhân dân tạo lập, gìn giữ. Đó cũng là nước Việt của ca dao thần thoại. không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới 2 thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. Thần thoại thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn ca dao bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc

2.4 câu tiếp

Cho nên Nguyễn Khoa Điềm đã mượn ý tứ của những câu ca dao quen thuộc để khám phá nhiều nắt đặc trưng trong tính cách, tâm hồn người Việt

" Dạy anh biết yêu em từ thưở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy
Đi trả thù không sợ dài lâu"

Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca

"Yêu em từ thưở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru"

Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân ng ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ, từ thời "thanh mai trúc mã"

Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc :"Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội". Nhà thơ đã mượn ý tứ câu ca dao "Cầm vàng mà lội qua sông - Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng" để ngợi ca truyền thống trọng tình nghĩa của ông cha ta. Dẫu phải sống trong cuộc sống triền miên khó khăn, nhọc nhằn, thiếu thốn nhưng nhân dân vẫn đề cao tình nghĩa hơn của cải vật chất

Nói đến bản sắc riêng của tâm hồn dân tộc không thể không nói đến sự bền bỉ phi thường trong chiến đấu

"Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy
Đi trả thù không sợ dài lâu"

Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến giữ nước trường kì của nhân dân từ thưở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, 10 năm chống Minh, 80 năm chống Pháp, 30 năm chống Pháp-Mĩ…thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh.

3.4 câu cuối

Từ niềm tự hào về nhân dân tác giả đã thể hiện niềm tin vào một tương lai tươi sáng, thanh bình cho đất nước

" Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình bắt lên câu hát
Người đến hát chèo đò vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"

Nghệ thuật đối lập ở hai câu đầu cho thấy tâm hồn lãng mạn, yêu ca hát của người Việt. dòng sông trước khi vào nước mình chỉ đơn thuần là bắt nước còn khi vào đến nước mình thì dòng sông ấy bắt lên câu hát. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền trung, hay đờn ca tài tử tha thiết ở miền Nam. Sự tương phản giữa hai hình ảnh "chèo đò, kéo thuyền vượt thác" và "câu hát" đã ca ngợi tinh thần lạc quan bất diệt của dân tộc. cuộc sống dẫu còn nhiều khó khăn gian khổ nhưng nhân dân chưa bao giờ mất niềm tin và hi vọng. hình ảnh dòng sông bắt lên câu hát gợi "trăm màu" đã ẩn dụ cho một ngày mai tươi sáng cho quê hơng đất nước.

1 nhận xét:

Bài đăng Phổ biến